Tôn này thuộc về Ðại thừa, chủ trương dạy người chuyên tâm niệm Phật để được vãng sanh về cảnh Tịnh độ của Phật A-Di-Ðà. Do đó, tôn này mới có tên là Tịnh độ tôn.
Ðây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dễ tu, dễ chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng. Với pháp môn này, bất luận hạng người nào, trong thời gian nào, hoàn cảnh nào, cũng có thể tu hành được cả. Nếu so sánh với con đường đi, thì tôn này là môt đại lộ bằng phẳng, rộng rãi, mát mẻ, hành giả dễ đi mà mau đến, không sợ gặp nguy hiểm chướng ngại giữa đường.
Bởi những lẽ ấy, nên từ xưa đến nay, đã có không biết bao nhiêu người chọn lựa pháp môn này để tu hành. Riêng ở Việt Nam chúng ta, ngày xưa cũng như hiện nay, có biết bao nhiêu người là môn đồ của tôn này. Ðó là lý do thúc đẩy chúng tôi gấp rút biên soạn bài này để giới thiệu “con đường tu thứ hai” trong mười tôn phái của Phật giáo.
I. DUYÊN KHỞI LẬP TÔN
Tịnh độ căn cứ vào những kinh điển gì để thành lập? Kinh điển mà Tịnh độ tôn đã y-cứ thì rất nhiều. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu lên một ít bộ kinh căn bản, thường được nói đến thôi. Ðó là các bộ:
1. Kinh vô lượng thọ: Kinh này chép lại 48 lời thệ nguyện của đức A-Di-Ðà, khi còn là một vị Tỳ kheo tên là Pháp Tạng. Nội dung của 48 lời thệ nguyện ấy là: Sau khi thành Phật, Ngài sẽ lập ra một quốc độ hết sức trang nghiêm thanh tịnh, để tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương thế giới về đó, nếu những chúng sanh ấy thường niệm đến danh hiệu Ngài và thường cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Ngài.
2. Kinh Quán Vô lượng thọ: Kinh này chép rõ 16 pháp quán và 9 phẩm, để dạy người cầu được vãng sanh về cõi Tịnh độ.
3. Kinh tiểu bổn A-Di-Đà: Kinh này lược tả cảnh giới cõi Cực Lạc trang nghiêm (Tịnh độ) khiến người sanh lòng ham mộ, phát nguyện tu theo pháp môn “trì danh niệm Phật cho đến nhất tâm bất loạn” để được vãng sanh về cõi ấy.
Ba kinh trên này là ba bộ kinh chính; cổ nhân thường gọi là “ Ba kinh Tịnh độ”. Ngoài ra còn có các kinh khác như:
- Kinh Bửu Tích chép việc đức Phật vì vua Tịnh-Phạn và bảy vạn người trong thân tộc, nói pháp môn “trì danh niệm Phật” để cầu sanh về thế giới Cực lạc.
- Kinh Đại bổn A-Di-Đà, kinh Thập lục quán, kinh Ban Châu niệm Phật, kinh Bi-Hoa, kinh Phương Ðẳng, kinh Hoa Nghiêm.v.v…
Giáo điển về Tịnh độ truyền qua Trung Hoa rất sớm, nhưng đến đời Ðông-Tấn nhờ Ngài Huệ Viễn đại sư ra công hoằng hóa, nên tôn này mới bắt đầu thịnh hành. Ngài là vị Tổ đầu tiên ở Trung Hoa. Sau đó, các vị đạo sư danh tiếng như Ngài Ðàm Loan, ngài Ðạo Xước, ngài Thiện Đạo.v.v... đều dùng pháp môn này mà tu chứng và hóa độ rất nhiều người và mãi lưu truyền cho đến ngày nay.
II. BỐN CÕI TỊNH ÐỘ
Tịnh độ không phải chỉ có một cõi, mà rất nhiều cõi. Ðứng về phương diện phân tích, từ tế đến thô, có thể chia làm 4 cõi Tịnh độ sau đây:
1. Thường tịch quang Tịnh độ: Đây là cảnh giới mà Pháp thân Phật an trụ. “Thường” là không thay đổi, không sanh diệt, tức là Pháp thân Phật; “Tịch” là xa lìa các phiền não vọng nhiễm, tức là đức Giải thoát của Phật; “Quang” là chiếu sáng khắp cả mười phương, tức là đức Bát-nhã của Phật. Như thế là cõi Tịnh độ này đủ cả ba đức quý báu của Phật là Thường, Tịch và Quang, cho nên gọi là “Thường tịch quang Tịnh độ”.
Cảnh tịnh độ này không có hình sắc mà chỉ là chơn tâm. Vì bản thể chơn tâm, hay tánh viên giác “thường vắng lặng, chiếu soi và thanh tịnh”, nên gọi là “Thường tịch quang Tịnh độ”. Chư Phật khi đã chứng được cảnh giới này rồi thì thân và độ không hai, song vì căn cứ theo ba loại tịnh độ sau đây mà tạm gọi là có Thân, có Ðộ. Chứng đến chỗ này, nếu đứng về Thân thì gọi là “Pháp thân”, còn về độ, thì gọi là “Thường tịch quang Tịnh độ”.
Kinh Tịnh danh, về lời sớ, có chép: Tu nhơn hạnh về viên giáo, khi nhơn viên quả mãn, thành bực Diệu giác (Phật) sẽ ở cõi “Thường tịch quang Tịnh độ”.
2. Thật-báo trang nghiêm Tịnh độ: Hành giả trải qua ba số kiếp, tích công lũy đức do phước báu tu hành nhiều đời dồn chứa lại, làm trang nghiêm cảnh giới chơn thật nên gọi là “Thật-báo trang nghiêm Tịnh độ”. Cảnh giới Tịnh độ này, là chỗ ở của Báo thân Phật. Kinh Quán vô lượng thọ về lời sớ có chép: “Tu-tập chơn-thật, cảm đặng quả báo tốt đẹp, cho nên gọi là “Thật báo trang nghiêm”. Bên Ðại thừa Viên giáo thì cõi này là của các bậc Tam hiền (Trụ, Hạnh, Hướng); còn bên Ðại thừa Biệt giáo, thì đây là cõi các bậc từ Thập địa cho đến Ðẳng giác Bồ tát.
3. Phương tiện hữu dư Tịnh độ: Cảnh Tịnh độ này không phải là cứu cánh rốt ráo, mà chỉ là phương tiện. Ðây là cõi Tịnh độ của hàng Nhị thừa. Các vị này tuy đã dứt được kiến-hoặc và tư-hoặc trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới ), nhưng còn dư lại hai hoặc là: vô-minh hoặc và trần-sa hoặc chưa trừ được, nên gọi là “hữu-dư”. Ðã là “hữu-dư” tức là chưa phải hoàn toàn cứu cánh, nên gọi cõi Tịnh độ này là “ Phương tiện hữu dư Tịnh độ”.
4. Phàm thánh đồng cư Tịnh độ: Ðây tức là cõi Tịnh độ của đức Phật A-Di-Đà ở Tây phương. Ðã gọi là Tịnh độ, hay Cực-lạc, tất nhiên có đủ các đức thanh tịnh trang-nghiêm, không có bốn ác thú. Nhưng đây vì Phật, Bồ tát và các vị thượng thiện nhơn (thánh) cùng sống chung với các chúng sanh mới vãng sanh, chưa chứng được quả thánh (phàm) nên gọi là “Phàm thánh đồng cư Tịnh độ”.
Vì phần đông tín đồ Phật giáo Việt Nam và Trung Hoa trong khi tu về pháp môn Tịnh độ, đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ này, tức là cõi Cực lạc của Phật A-Di-Ðà, nên ở đây, chúng tôi xin căn cứ theo kinh “Tiểu bổn A-Di-Ðà” thuật lại lời đức Phật Thích-Ca đã tả về cảnh giới của cõi Tịnh độ này: “...Từ cõi Ta-bà này, cứ về hướng Tây, cách đây hơn mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc. Vị Giáo-chủ ở thế-giới ấy là Phật A-Di-Đà, thường hay nói pháp. Cõi ấy có bảy lớp câu-lơn (tường-hoa), bảy lớp lưới giăng, bảy hàng cây xinh đẹp, có hồ thất bảo đầy nước tám công đức. Ðáy hồ toàn là cát vàng. Bốn phía bờ hồ đều cẩn vàng ngọc, châu báu. Trong hồ có hoa sen bốn màu lớn bằng bánh xe, hương thơm ngào ngạt, màu nào cũng có hào quang chiếu sáng. Quanh hồ, vươn lên những tòa lâu đài nguy nga, xinh đẹp làm toàn bằng thất bảo.
Trên không trung hòa lẫn những bản nhạc thiêng, có những tiếng chim báu, do Phật hóa hiện ra, để thuyết pháp luôn trong sáu thời cho dân chúng nghe. Người nghe rồi liền phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng. Không những chỉ có tiếng chim, mà cho đến tiếng nước chảy, gió thổi, cây reo, cũng đều phát ra tiếng phát nhiệm mầu.
Cảnh giới Cực-lạc tốt đẹp, trang nghiêm như thế là do công đức của Phật A-Di-Đà (1) là vị Giáo chủ của cõi ấy và các vị Bồ tát, Thánh chúng chung nhau tạo thành.
III. BA YẾU TỐ ÐỂ CẦU SANH TỊNH ÐỘ
Muốn được vãng sanh, về cõi Tịnh độ nói trên, hành giả phải chuẩn bị ba yếu tố sau đây là: Tín, Nguyện và Hành. Ba yếu tố này thường được gọi là ba món tư-luơng (lương phạn đi đường). Nếu thiếu một món nào, hành giả cũng không thể tu hành có kết quả được.
1. Thế nào là “Tín”? Tín là đức tin vững chắc, không gì lay chuyển được. Ðức tin rất quan trọng và cần thiết cho người tu hành. Kinh Hoa Nghiêm có dạy: “Tin là mẹ sanh ra các công đức”. Nhờ đức tin mà quả Bồ-đề có thể thành tựu được.
Tin có ba phần:
a) Tin Phật: Tin rằng Phật là đấng hoàn toàn sáng suốt, biết các việc quá khứ, hiện tại và vị lai, thấy hết thảy hằng sa thế giới, hiểu biết các pháp một cách rõ ràng. Tin rằng do lòng Từ bi muốn cứu khổ sanh tử luân hồi cho chúng sanh, mà Phật Thích-Ca nói pháp môn niệm Phật, để chúng sanh thực hành theo mà được vãng sanh về Tịnh độ. Tin rằng lời dạy của đức Phật Thích-Ca không hư đối, đức-Phật A-Di-Ðà và cảnh Tịnh độ đều có thật.
b) Tin Pháp: Tin rằng pháp môn niệm Phật là pháp môn dễ tu, dễ chứng, có bảo đảm chắc chắn. Tin rằng 48 lời thệ nguyện của Phật A-Di-Ðà có đầy đủ hiệu lực để ccứu độ chúng sanh, và nếu ta thực hành đúng theo pháp môn này, chắc chắn sẽ được vãng sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Ðà.
c) Tin mình: Tin rằng mình có đầy đủ khả năng và nghị lực để tu theo pháp môn này. Tin rằng nếu mình thực hành đúng như lời Phật Thích-Ca đã chỉ dạy trong kinh A-Di-Ðà, chuyên trì danh hiệu Phật A-Di-Ðà cho đến “nhất tâm bất loạn” thì khi lâm-chung chắc chắn thế nào mình cũng sẽ được sanh về cõi Tịnh độ.
2. Thế nào là “Nguyện”? Nguyện là lời hứa hẹn, sự ước ao, là chí nguyện, mong muốn thực hiện những điều chân chính. Nguyện là sức hút của đá nam châm, là cánh buồm căng gió của chiếc thuyền, là cái chong chóng của chiếc máy bay. Nguyện là động cơ thúc đẩy cho con người tu hành mau đến mục đích.
Nguyện quan trọng như thế, nên hành giả phải lập nguyện cho vững bền, luôn luôn kiên tâm, trì chí tu theo pháp môn niệm Phật này, ngày đêm chuyên niệm Phật không ngớt, thiết tha mong cầu được sanh về cõi Tịnh độ của Phật A-Di-Ðà.
Ðể có một ý niệm về chữ “nguyện”, chúng tôi xin trích ra sau đây ba lời nguyện, trong 48 lời nguyện của Phật A-Di-Ðà, khi còn làm Pháp Tạng Tỳ kheo:
- “Sau khi ta thành Phật, chúng sanh ở mười phương một lòng tin ưa, muốn về cõi ta, từ một niệm cho đến mười niệm, nếu chúng sanh ấy không đặng vãng sanh, thì ta thề không thành bậc Chánh-giác, chỉ trừ những người phạm tội ngũ nghịch và chê bai Chánh pháp”.
- “Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương pháp giới phát tâm Bồ đề, tu các công đức, một lòng phát nguyện, muốn sanh về cõi nước ta, giá như ta không cùng với đại chúng đoanh vây hiện ra ở trước mắt chúng sanh ấy, thời ta thề không thành bậc Chánh-giác”.
- “Nếu ta đặng thành Phật, chúng sanh ở mười phương nghe danh hiệu ta, chuyên niệm cõi nước ta, mà nếu không được thỏa nguyện, thì ta thề không thành bậc Chánh-giác”.
3. Thế nào là “Hành”? Hành là thực hành, làm theo. Nếu tin (tín) mà không ước ao, mong muốn (nguyện) thì chỉ là tin suông, vô bổ. Nhưng nếu ước ao, mong muốn (nguyện) mà không làm (hành) thì chỉ là ước ao, mong muốn ảo-huyền, không đi đến kết quả gì. Bởi thế, Tín, Nguyện, Hành ba yếu tố căn bản này bao giờ cũng phải có đủ, mới đủ điều kiện vãng sanh Tịnh độ. Cũng như cái đảnh, phải có đủ ba chân mới đứng vững được, thiếu một chân, tất phải ngã.
IV. PHƯƠNG PHÁP TU VỀ TỊNH ÐỘ
Sau khi đã chuẩn bị đủ ba yếu tố hay ba món tư lương Tịnh độ nói trên, chúng ta phải hạ thủ công phu ngay. Nhưng muốn cho có hiệu quả, chúng ta cần hiểu rõ phương pháp tu hành. Vẫn biết rằng pháp môn niệm Phật là một pháp môn rất giản dị, chỉ cần niệm Phật là đủ. Nhưng niệm Phật cũng có nhiều cách, nhiều loại, mà chúng tôi xin dẫn một ít phương pháp sau đây:
1. Trì-danh niệm Phật: Trong lối niệm Phật này, hành giả chỉ chuyên tâm trì niệm danh hiệu của Phật A-Di-Ðà. Mỗi ngày từ khi mới thức dậy cho đến lúc đi ngủ, hành giả phải nhớ niệm luôn, không cho xen hở. Khi đi, khi đứng, khi nằm, khi ngồi, khi ăn, trước khi ngủ, hành giả đừng bao giờ quên niệm Phật. Ngoài ra muốn cho có hiệu quả hơn, hành giả cần phải theo phương pháp “Kinh hành niệm Phật” (xem nghi thức kinh hành niệm Phật) hay “Tọa thiền niệm Phật” (xem nghi thức tọa thiền niệm Phật). Mỗi khi niệm xong, hành giả đều hồi hướng cầu sanh về Tịnh độ.
2. Tham-cứu niệm Phật: Trong lối tu này, hành giả phải tham khảo cứu xét, suy nghiệm câu niệm Phật. Như khi niệm “Nam-mô A-Di-Ðà Phật”, hành giả phải quán sát câu niệm Phật này, từ đâu mà đến, đến rồi sẽ đi về đâu? Niệm đây là ai niệm v.v...? Nhờ sự chuyên tâm chú ý tham khảo một câu niệm Phật như thế, nên sóng vọng-tưởng dần dần chìm lặng, nước định tâm hiện bày, hành giả được “nhất tâm bất loạn”, đến khi lâm chung, sẽ được sanh về cảnh-giới của Phật. Pháp niệm Phật này giống như pháp tham cứu câu “thoại đầu” bên Thiền tôn, nên gọi là “tham-cứu niệm Phật”.
3. Quán tượng niệm Phật: Trong lối tu này, hành giả chăm chú quan sát hình tượng của Phật.
Hành giả ngồi trước tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng, quán sát các tướng tốt mà liên tưởng đến các đức tánh của Phật. Như khi chiêm ngưỡng đôi mắt Phật, thì liên tưởng tới trí huệ của Phật; khi chiêm ngưỡng nụ cười hiền hòa của Phật, thì liên tưởng đến đức tánh từ bi, hỷ xả của Phật. Nhờ quán trí huệ của Phật mà tánh Si của hành giả phai dần; nhờ quán từ bi của Phật mà tánh Sân của hành giả bớt dần... Hễ quán thêm một đức tánh tốt của Phật, thì một tánh xấu của hành giả được bớt đi. Tánh của Ðức-Phật như tia sáng mặt trời, tánh xấu của hành giả như vết mực; tia sáng mặt trời càng sáng nhiều và càng chiếu rọi lâu ngày, thì vết mực càng phai nhanh. Tóm lại, nhờ sự chú tâm quán các tướng tốt trên hình tượng của Phật, mà các đức tánh như từ bi, hỷ xả, bình đẳng, lợi tha được huân tập, thấm nhuần vào tâm hành giả; lâu ngày, tâm hành giả sẽ thanh tịnh, lọc sạch những niệm ác độc và sẽ giống tâm Phật, được vãng sanh về cõi Phật.
4. Quán tưởng niệm Phật: Trong lối tu này, hành giả ngồi yên một chỗ, mặc dù không có hình tượng Phật trước mặt, mà hành giả quán tưởng như có đức Phật A-Di-Ðà, cao lớn đứng trên hoa sen, phóng tỏa hào quang như tấm lụa vàng, bao phủ cả thân hình mình. Hành giả ngồi ngay thẳng, hai tay chắp lại, cũng tưởng mình ngồi trên tòa-sen, được Phật tiếp dẫn. Hành giả chuyên chú quán tưởng mãi mãi như thế; đi, đứng, nằm, ngồi cũng không dừng nghỉ, cho đến khi nào, mở mắt hay nhắm mắt cũng đều thấy Phật, tức là pháp quán đã thuần thục. Khi lâm chung, hành giả chắc chắn sẽ được vãng sanh về Tịnh độ.
Trong kinh Quán Phật tam muội chép rằng: “Phật vì Phụ-vương, nói pháp quán tưởng bạch hào...”. Quán tưởng bạch hào nghĩa là quán tưởng lông trắng có hào quang sáng chiếu, giữa hai chân mày của Phật, như trăng thu tròn đầy, trong suốt như ngọc lưu ly. Ðây là một phương pháp quán tưởng niệm Phật.
5. Thật tướng niệm Phật: Thật tướng niệm Phật là niệm Phật đã đạt đến bản thể chơn tâm. Chơn tâm không sanh diệt, không khứ lai, không hư không giả, cho nên gọi là “thật tướng”.
Trong năm pháp niệm Phật trên này, thì bốn pháp trước đều thuộc về Sự, có niệm có tu; còn pháp thứ năm (Thật tướng niệm Phật) là thuộc về Lý: không còn niệm, còn tu, không còn năng sở, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến chỗ này mới hoàn toàn rốt ráo.
Nhưng, hành giả phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự , Lý mới hiển. Trước hết phải tu bốn pháp niệm Phật trên, cho đến khi thuần thục, không còn thấy có mình là người niệm, Phật là vị bị niệm, chỉ có một tâm yên lặng chiếu soi, không năng sở, bỉ thử, không hữu, không vô. Ðến chỗ này, kinh Di-Ðà gọi là “được nhất tâm bất loạn”. Kinh Tứ thập nhị chương chép: “niệm đến chỗ vô niệm, mới là chơn niệm”.
Trong năm pháp niệm Phật trên đây, từ xưa đến nay, người tu Tịnh độ, thường lựa pháp môn trì danh, là một pháp môn dễ hạ thủ công phu, hành giả ở trình độ nào, chỗ nơi nào hay lúc nào, cũng đều có thể tu được. Thật là một pháp môn rất thù thắng.
V. LỢI ÍCH CỦA PHÁP NIỆM PHẬT
Lợi ích của pháp niệm Phật thật vô lượng vô biên, tựu trung có thể chia làm hai phần: lợi ích về Sự và lợi ích về Lý.
1. Lợi ích về Sự
a) Niệm Phật sẽ trừ được các phiền não.
Những người gặp các cảnh khổ, như tử biệt sanh ly, nhà tan cửa mất, tai nạn bất thường v.v... sanh các phiền não, nếu biết chí tâm niệm Phật, thì các phiền não khổ đau dần dần tiêu tan. Vì sao lại có kết quả tốt đẹp như thế? Vì tâm ta cũng như dòng nước luôn luôn tuôn chảy. Nếu chúng ta pha vào những chất cáu bẩn, thì nước trở thành đục bẩn; nếu chúng ta pha vào những chất thơm tho, thì nước sẽ trở thành thơm mát. Nếu tâm ta chỉ nhớ nghĩ đến những tai nạn khổ đau, thì luôn luôn sẽ bị phiền não khuấy đục. Khi ta niệm Phật thì cố nhiên sẽ nhớ Phật, quên đau khổ. Ðem sự nhớ Phật này thế cho cái nhớ sự khổ đau; một giờ niệm Phật thì đổi được một giờ sầu khổ, một ngày niệm Phật thì đổi được một ngày khổ đau. Cứ như thế, nếu niệm Phật được tăng chừng nào, thì sự buồn phiền đau khổ sẽ giảm đi chừng ấy. Cho nên cổ nhân có câu: “Một câu niệm Phật giải oan khiên”.
Trong thời kỳ chiến tranh Việt-Pháp vừa qua, chúng tôi đã đem phương pháp niệm Phật nảy chỉ cho một số người sầu khổ gần như điên của, vì sự nghiệp bị tiêu tan, con cháu mất lạc, họ thu lượm kết quả rất là tốt đẹp.
b) Niệm Phật sẽ trừ được niệm chung sanh.
- Chúng sanh hằng ngày nhớ nghĩ đến những điều tội lỗi như tham, sân, si v.v... miệng thốt ra những điều tội ác, thân làm những việc xấu xa. Ðó là những ác nghiệp của chúng sanh. Nay nếu chúng ta niệm Phật, thì chúng ta không còn thì giờ để nhớ nghĩ việc tội lỗi và thực hành những ác nghiệp trên nữa. Như thế là niệm Phật sẽ trừ được niệm chúng sanh. Niệm Phật càng nhiều thì niệm chúng sanh càng ít. Niệm Phật hoàn toàn thì niệm chúng sanh dứt sạch.
c) Niệm Phật sẽ làm cho thân thể được nhẹ nhàng an ổn.
Bệnh tật của chúng ta, một phần do thể xác, nhưng một phần cũng do ảnh hưởng của tinh thần. Nhiều người mất ăn, bỏ ngủ vì uất hận, nhục nhã v.v... Do đó, uất khí tích tụ lâu ngày trong người, mà sanh bệnh mất ăn bỏ ngủ. Gặp những trường hợp như vậy, nếu chúng ta niệm Phật cho ra tiếng, thì những nỗi uất hận đè nặng tâm can chúng ta, sẽ như được trút ra cùng hơi thở, cùng tiếng niệm, và thân tâm ta sẽ được nhẹ nhàng dễ chịu. Những người yếu tim, nếu biết niệm Phật sẽ mau bình phục. Vì bệnh yếu tim thường làm cho người bệnh hồi hộp, lo sợ; nay nhờ niệm Phật nên tâm định, tâm định thì những sự hồi hộp lo nghĩ giảm đi. Do đó mà ăn được,ngủ yên, và bệnh mau bình phục.
d) Niệm Phật tâm trí sẽ sáng suốt, học hành mau nhớ.
Những người tâm trí loạn động thì tối tăm, như ngọn đèn bị gió, không sáng được. Nhờ niệm Phật, tâm trí sẽ định tĩnh, như ngọn đèn có ống khói, không lay động. Do đó tâm trí sẽ phát chiếu, như ngọn đèn tỏa ánh sáng vậy.
đ) Niệm Phật, khi lâm chung sẽ được sanh về Tịnh độ.
Như chúng ta đã thấy ở trên, niệm Phật đem lại cho chúng ta nhiều ích lợi thiết thực trong đời sống hiện tại, về phương diện thể chất lẫn tinh thần, về tính tình lẫn trí huệ. Nhưng cái lợi ích lớn nhất là ở đời sau. Nếu chúng ta thực hành pháp niệm Phật này, đúng như lời Phật dạy, cho đến “nhất tâm bất loạn” thì sau khi lâm chung, sẽ sanh về Tịnh độ, được luôn luôn thấy Phật nghe pháp, làm bạn với thánh hiền, và có đủ nhiều thiện duyên để tiếp tục tu hành cho đến quả Phật.
2. Lợi ích về Lý
Khi hành giả niệm Phật được “nhất tâm bất loạn”, thì các vọng tưởng hết, chơn tâm thanh tịnh hiện ra. Chơn tâm không sanh diệt hư hoại là “Thường”, chơn tâm thanh tịnh vắng lặng là “Tịch”, chơn tâm sáng suốt vô cùng là “Quang”. Cảnh “Thường tịch quang Tịnh độ” chỉ ở nơi chơn tâm ta, chứ không đâu khác.
Lại nữa, chơn tâm không hoại diệt là “Phật Vô lượng thọ”; chơn tâm chiếu soi vô tận là “Phật Vô lượng quang” và đó cũng tức là “Thanh tịnh diệu Pháp thân của Phật A-Di-Ðà”.
Tóm lại, người niệm Phật đến khi hết vọng, ngộ nhập được chơn tâm rồi, thì Phật A-Di-Ðà hay cảnh Tịnh độ cũng chỉ ở nơi tâm mình hiện ra, chứ không phải đâu xa. Vì thế nên kinh chép: “Tự tánh Di-Ðà, duy tâm Tịnh độ” là vậy.
Xuyên qua các đoạn trên, chúng ta thấy pháp niệm Phật được sự lợi ích vô cùng. Nếu những người không tin có Phật A-Di-Ðà, có cảnh Tịnh độ, mà chí tâm niệm Phật, thì cũng được nhiều lợi ích như trên.
VI. SỰ QUY NGƯỠNG VÀ CẦU SANH VỀ TỊNH ÐỘ CỦA CÁC VỊ BỒ TÁT VÀ TỔ SƯ
Chúng ta đừng tưởng rằng pháp môn Tịnh độ là một pháp môn tầm thường, giản dị chỉ để dành riêng cho những người căn trí thấp thỏi hẹp hòi tu hành. Thật ra, mặc dù pháp môn này không đòi hỏi hành giả có một sức hiểu biết thâm sâu, một trí óc thông minh xuất chúng, nhưng vì nó dễ tu dễ chứng, hiệu quả chắc chắn nên từ xưa đến nay, rất nhiều vị Bồ tát và Tổ sư đã thực hành pháp môn này để cầu sanh về Tịnh độ. Ngài Văn Thù là vị Bồ tát có một trí tuệ tối-thắng, không ai sánh kịp, thế mà Ngài cũng đã phát nguyện sanh về nước Cực-lạc của Phật A-Di-Ðà như sau:
Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời
Tận trừ nhất thế chư chướng ngại
Diện kiến bi Phật A-Di-Ðà
Tức đắc vãng sanh An lạc sát.
(Tôi nguyện đến khi lâm chung, diệt trừ hết cả chướng ngại, trước mặt thấy được Phật A-Di-Ðà, liền được vãng sanh về cõi An lạc).
Các vị Bồ tát như ngài Phổ Hiền, Quán Âm, Ðại Thế Chí cũng đều nguyện sanh về cõi Tịnh độ.
Các vị Tổ ở các tôn khác, mặc dù hoằng truyền tôn mình, nhưng cũng vẫn tu về Tịnh độ. Như ngài Thiên Thân, tổ của Duy thức tôn; ngài Trí Giả đại sư, tổ của Thiên Thai tôn; ngài Hiền Thủ, tổ của Hoa Nghiêm tôn; ngài Nguyên Chiếu luật sư, tổ của Luật tôn; ngài Mã Minh, Long Thọ, tổ của Thiền tôn v.v... cũng đều thực hành pháp môn Tịnh độ.
Sau nữa, các vị Ðại sư danh tiếng ở Trung Hoa, như ngài Ðàm Loan, ngài Ðạo Xước, ngài Thiện Đạo, ngài Thừa Viễn, ngài Pháp Chiếu, ngài Thiếu Khương, ngài Tĩnh Am v.v... đều dùng pháp môn này để tự độ và độ tha, và mãi mãi lưu truyền cho đến ngày nay.
VII. KẾT LUẬN
Chúng ta đã biết qua tôn chỉ, đặc điểm, phương pháp tu hành và giá trị của Tịnh độ tôn. Ðến đây, chúng ta cần phải lắng tâm suy xét kỹ lưỡng, xem phương pháp tu về Tịnh độ tôn này, có thiết thực lợi ích và có thích hợp với chúng ta không. Trong phút giây quan trọng này, chúng ta hãy hết sức thành thực: nếu chúng ta nhận thấy phương pháp tu này rõ ràng không thích hợp với chúng ta, thì chúng ta có quyền chờ đợi lựa chọn một phương pháp khác. Nhưng nếu chúng ta nhận thấy nó có một giá trị thiết thực, lợi ích chắc chắn cho đời chúng ta trong hiện tại và mai sau, thì chúng ta đừng chần chờ gì nữa, hãy hạ thủ công phu ngay. Thời gian vùn vụt trôi qua, chẳng chờ ai cả. Hãy chuẩn bị ngay ba món tư lương là Tín, Nguyện, Hành và tinh tấn thực hành các phương pháp niệm Phật.
Với thái độ thiết tha chân thành, một quyết tâm không thối chuyển, chúng ta chắc chắn sẽ niệm Phật đến chỗ “Nhất tâm bất loạn”.
(1) Chữ A-Di-Ðà, người Trung Hoa dịch là “Vô lượng thọ” hay “Vô lượng quang”, nghĩa là Ðức Phật này sống lâu không lường và hào quang chói sáng cũng không lường
Blogger Comment
Facebook Comment