Powered by Blogger.

B

BABY BOND: Trái phiếu có mệnh giá nhỏ Trái phiếu nợ khả hoán hay trực tiếp có mệnh giá dưới $1.000 dollar, thường từ $25 đến $500. Trái phiếu có mệnh giá nhỏ làm cho thị trường trái phiếu vừa tầm với nhà đầu tư nhỏ (ít tiền), vì lẽ đó mở ra một nguồn quỹ thích hợp với các công ty không đủ điều kiện tham gia vào các thị trường tài chánh lớn . Nhưng ngược lại, trái phiếu đòi hỏi phí quản lý cao hơn (tương ứng với tổng số tiền được tăng) đối với việc phân phối và tiến trình thực hiện và không có thị trường lớn và năng động để bảo đảm khả năng chuyển đổi ra tiền mặt (khả năng thanh toán) như các trái phiếu thông thường.

BACK CONTRACTS: Hợp đồng còn lâu mới đáo hẹn Hợp đồng futures còn lâu mới đáo hạn. Nó được gọi là Back months hay Distant contracts (hợp đồng còn nhiều tháng nữa mới đáo hạn). Ngược lại với front contracts (hợp đồng gần đến ngày đáo hạn).

BACKDATING: Ghi lùi ngày tháng Tổng quát: Sắp đặt ngày tháng (thời điểm) văn kiện giấy tờ chi phiếu hay các công cụ khác sớm hơn ngày đã ấn định. Quỹ hỗ tương đầu tư : đặc tính cho phép người trong quỹ được sử dụng sớm hơn một số tiền ấn định trong một khoảng thời gian ấn định. Với phí bán được giảm. Định lùi lại ngày tháng, thường đi kèm với một vụ giao dịch mua bán lớn, là làm cho một trị giá có hiệu lực từ trước để mua trước thời điểm nhằm đáp ứng các quy định của số trên đã hứa chi trước hay các quy định của thư xác định (mua hay vay).

BALANCE SHEET: Bản cân đối tài khoản Báo cáo tài chánh còn gọi là báo cáo tình hình hay báo cáo vị thế tài chánh, cho biết tình trạng tài sản của công ty, nợ và vốn cổ đông vào một thời điểm ấn định, thường là lúc cuối tháng. Đây là một cách để xem xét một công ty kinh doanh dưới dạng một khối vốn (tài sản) được bố trí dựa trên nguồn của vốn đó (nợ và vốn cổ đông). Vốn tương đương với nợ và vốn cổ đông nên bản cân đối tài khoản là bản liệt kê các hạng mục sao cho hai bên đều bằng nhau. Không giống với bản báo cáo lời lỗ là bản cho biết kết quả của các hoạt động trong một khoảng thời gian, bản cân đối tài khoản cho biết tình trạng các sự kiện kinh doanh tại một thời điểm. Nó là một ảnh chụp (tĩnh) chứ không phải là một cuốn phim (động) và phải được phân tích dựa trên sự so sánh các bản cân đối tài khoản trước đây và các báo cáo hoạt động khác.

BALANCE SHEET RATIOS: Các tỷ lệ cân đối tài khoản

  • Tỷ lệ dùng để xác định tình trạng tài chánh và các thay đổi vị thế tài chánh của công ty dựa trên các dữ kiện báo cáo trong bản cân đối tài khoản. Một số tỷ lệ đặc biệt được áp dụng trong ngân hàng. Quan trọng nhất là tỷ lệ vốn (đo lường tỷ lệ vốn cổ đông đối với tổng tài sản) và tỷ lệ thanh toán (đo lường khả năng ngân hàng để trang trải số tiền ký thác được rút ra và chi trả quỹ nhằm thoả mãn nhu cầu tín dụng của người vay). Các tỷ lệ hữu ích khác là tỷ lệ tiền vay đối với số ký thác (tổng số tiền vay chia cho tổng số ký thác) tỷ lệ thanh lý (charge-off ratio), tỷ lệ xoá nợ vì khó đòi (số xoá sổ thuần được tính theo số phần trăm của tổng số tiền cho vay). Tỷ lệ dự trữ tiền vay mất đứt (số dự trữ tiền vay mất đứt đối với trên vay có khả năng mất đứt tính theo số phần trăm tổng số trên cho vay) và tỷ lệ tiền cho vay chưa trả (Nonperforming loans – tiền vay quá hạn chưa trả) đối với tổng số tiền cho vay.

  • Tỷ lệ kế toán do nhân viên tín dụng ngân hàng dùng để đánh giá sức tín dụng của người vay. Các tỷ lệ thường được sử dụng rộng rãi nhất là : tỷ lệ đo lường sức chứng khoán (Acid test ratio) hay tỷ lệ thử biết ngay (quick ratio) (tài sản ngắn hạn chia cho nợ hiện hành), tỷ lệ hiện hành (current ratio) (tài sản hiện hành chia cho nợ hiện hành) và tỷ lệ trang trải nợ (vốn lưu động chia cho nợ dài hạn). Tỷ lệ tài chánh có thể được đo lường dựa trên các tỷ lệ trong các năm trước hay các chỉ số công nghiệp để tính cho nhanh và dễ so sánh. các tỷ lệ quan trọng như tỷ lệ.


BID BOND: Cam kết của bên đấu thầu Cam kết thực hiện của bên đấu thầu về một hợp đồng dự án quốc tế. Sự cam kết được yết thị như là bằng chứng về khả năng của người đấu thầu có thể thực hiện các điều khoản trong hợp đồng. Tín dụng thư hỗ trợ là một phương pháp thông thường để thông báo cam kết của bên đấu thầu.

BID – TO – COVER RATIO: Tỷ lệ giá đặt mua trúng thầu vô giá đặt mua khác Số giá đặt mua đạt được trong cuộc đấu giá công trái khi so sánh với số giá đặt mua được chấp nhận. Tỷ lệ cao (trên 2,0) cho biết là việc đặt giá mua rất năng nổ và cuộc đấu giá coi như thành công : Tỷ lệ thấp cho biết nhà nước có khó khăn trong việc bán trái phiếu, và thông thường kéo theo cái đuôi “Tail” dài, có nghĩa là có chênh lệch lớn giữa hoa lợi trung bình và hoa lợi cao (giá đặt mua trung bình và giá đặt mua thấp nhất được chấp nhận).

BID WANTED (BW): Bố cáo đấu giá Thông báo của người có chứng khoán, trái phiếu muốn bán và sẵn sàng xem xét các giá đặt mua. Bởi vì giá cuối cùng tuỳ thuộc vào thương lượng nên giá đặt mua theo bố cáo đấu giá không cần phải ấn định trước. Bố cáo đấu giá thường có trên các tờ yết giá được phát ở các thị trường.

BIDDING UP: Giá đặt mua tăng Giá đặt mua chứng khoán liên tiếp được nâng lên vì ngại rằng giá đang tăng vọt sẽ làm cho các lệnh mua bán không thể thực hiện được. Nhà đầu tư muốn mua một số lượng lớn cổ phần trong thị trường đang tăng giá lúc đó người nay đang dùng lệnh có giới hạn (lệnh mua theo giá ấn định hoặc thấp hơn) để đảm bảo được giá có lợi nhất, tuy nhiên vì lệnh đặt bán đang tăng trên thị trường, nên nhà đâu tư phải tăng mức giới hạn trong lệnh mua lên để tiếp tục tích luỹ cổ phần. Đến một mức độ nào đó người mua tạo ra giá mua tăng gây áp lực trên chứng khoán, nhưng lúc đó hầu hết giá đã tăng ngoài vòng kiểm soát của ông ta.

BIG BANG: Bùng nổ cải tổ Sự điều chỉnh của các thị trường chứng khoán ở London vào ngày 27-10-1986, biến cố nay có thể so sánh với biến cố May Day ở Hoa Kỳ. Nó đánh dấu giai đoạn quan trọng tiến đến một thị trường tài chánh thế giới duy nhất. BIG BLUE : Công ty IBM Tên thông dụng của Interational Business Machines Corporation (công ty IBM), do bảng hiệu của công ty sơn màu xanh.

BIG BOARD: Thị trường chứng khoán New York Tên thông dụng của New York Stock Exchange (NYSE).

BATCH: Một mẻ – Đợt Nhóm chi phiếu, hối phiếu hay các công cụ chi trả được tập hợp thành một đơn vị để Văn Phòng Điều Hành xử lý sau đó trong suốt ngày làm việc. Nó còn được gọi là “khối” (Block). Hãy đối chiếu với On-line Processing.

BATCH HEADER RECORD: Số sách tập hợp các danh mục chính

  • Sổ sách có 94 danh mục địa chỉ ngân hàng để gởi sổ chi trả ACH (Automated Clearing House). Mã này có thể không cùng với mã số chuyển ABA nếu số chi trả được tiến hành thông thường thông qua một ngân hàng tương tác.

  • Mã số nhận dạng một nhóm tài khoản được xử lý như một đơn vị.


BD FORM : Tờ khai BD Hồ sơ của công ty môi giới chứng khoán phải cập nhập hoá và nộp cho SEC, trong đó ghi chi tiết về tài chính và cán bộ công nhân viên.

BEAR: Người đầu cơ giá xuống.

BEAR BOND: Trái phiếu trong thị trường chiều xuống Trái phiếu được xem như là có thể tăng trị giá trong thị trường có chiều xuống, có nghĩa là lúc lãi suất thị trường tăng. Trái phiếu điển hình chi trả cho nhà đầu tư một loạt tiền mặt cố định theo trị giá dollar và theo thời điểm chi trả, nó sẽ giảm giá khi lãi suất thị trường tăng. Thí dụ, một vài loại trái phiếu nào đó như chứng khoán thế chấp có lãi suất tách riêng (interest-only strip) chỉ lấy theo lãi suất hay chứng khoán được thế chấp bảo đảm – chi trả tiền lãi theo khả năng tăng trị giá trong thị trường chiều xuống bởi vì số chi trả lại của số thế chấp cơ sở đã bị chậm lại, việc trả lại chậm này làm tăng tổng số tiền mặt mà nhà đầu tư mong nhận được trong thời gian hiệu lực của đầu tư.

BEAR HUG: Bí quá phải làm (bị con gấu ôm) Giá đặt mua cao (Takeover – giá đặt mua nhằm mua lại một công ty – giá đặt mua để tiếp quản công ty) vì thế có giá và các đặc tính hấp dẫn ban giám đốc công ty bị mua (target company), ban giám đốc có thể phản đối vì các l› do khác nhưng phải chấp nhận nếu không muốn bị các cổ đông phản đối.

BEAR MARKET: Thị trường rớt giá lâu dài -Thị trường theo chiều hướng xuống Giá rớt trong một thời khoảng kéo dài. Thị trường chứng khoán theo chiều xuống dẫn đến việc người ta dự báo hoạt động kinh tế sẽ giảm và thị trường trái phiếu theo chiều xuống là hậu quả của lãi suất thị trường gia tăng.

BEAR RAID: Đột kích của người đầu cơ giá hạ Nhà đầu tư nỗ lực đầu cơ giá chứng khoán bằng cách bán khống một số lượng lớn cổ phần. Những người đầu cơ khống bỏ túi số chênh lệch giữa giá ban đầu vô giá mới thấp hơn giá ban đầu sau khi thực hiện đầu cơ giá. Việc này trái với luật lệ của SEC, theo luật SEC chỉ được bán khống theo giá tăng một gạch (uptick) (giá sau cùng cao hơn giá trước đó) hay theo giá cộng gạch o (zero plus tick) (giá sau cùng không thay đổi nhưng cao hơn giá sau cùng trước giá khác).

BEAR SPREAD: Mua bán theo chênh lệch trong thị trường giá hạ – Chênh lệch do đầu cơ giá hạ Sách lược trong thị trường option nhằm kiếm lời khi giá chứng khoán hay . hàng hoá bị rớt giá. Người theo sách lược này có thể mua phối hợp hợp đồng Call Options và Put Options cùng một loại chứng khoán theo giá điểm (giá thực thi) khác nhau – để kiếm lợi khi giá rớt. Hoặc là nhà đầu tư có thể mua hợp đồng put options ngắn hạn và hợp đồng put options dài hạn để kiếm lời từ số chênh lệch giữ hai hợp đồng khi giá hạ.

BEAR SQUEEZE: Nhà đầu cơ giá hạ bị nghiền nát Sự can thiệp chính thức của ngân hàng trung ương và thị trường ngoại hối để buộc nhà đầu cơ tiền tệ bán không tiền tệ (bán tiền tệ vay mượn) phải bảo kê vị thế của họ, nhằm ngăn chặn nhà đầu cơ tìm cách kiếm lời thật nhanh. Thông thường việc này được thực hiện bằng cách cấm mua tiền tệ địa phương nhiều hơn số có sẵn trong thị trường ngoại hối và thường làm. cho nhà đầu cơ tiền tệ thua lỗ nặng.

BEARER BOND: Trái phiếu thuộc người giữ Trái phiếu chi trả cho người giữ (mang) hơn là trả cho người sở hữu có đăng ký trong sổ của ngân hàng phát hành hay đơn vị đại lý phát hành. Trái phiếu này là công cụ chi trả không căn cứ vào bản ghi quyền sở hữu. Người được chi trả là người có trái phiếu và giữ nó một cách trung thực (hợp pháp) . Tiền lãi trái phiếu được trả nửa năm một lần khi phiếu lãi (coupon) được cắt ra và trình cho ngân hàng để lãnh tiền lãi, giống như chi phiếu. ngược lại với trái phiếu đăng ký (Registered Bond).

BEARER DEPOSITARY RECEIPT (BDR): Biên nhận tồn trữ ký thác thuộc người mang Biên nhận số tồn kho được thịết lập cho người mang. BDR được phát hành cho số cổ phần trong các công ty nước ngoài.

BEARER DEPOSIT NOTE (BDR): Chứng chỉ ký thác thuộc người mang Chứng chỉ thuộc người mang được phát hành cho số ký thác ngân hàng. Trong khi chứng chỉ ký thác (CD – Certificate of deposits) là loại ký thác có lãi thì BDR là loại công cụ có chiết khấu (khấu trừ).

BEARER FORM: Thể thức trái phiếu thuộc người mang Loại trái phiếu không đăng ký trong sổ sách của công ty phát hành và vì thế có thể chi trả cho người nào có trái phiếu. Trái phiếu thuộc người mang có phiếu lãi đinh kèm (coupon) trái chủ sẽ gởi hay trình phiếu lãi này vào ngày đáo hạn lãi để nhận lãi, vì thế có tên khác là Coupon Bond. Chứng chỉ chứng khoán thuộc người mang có thể chi trả mà không cần bối thự mà chỉ cần được chuyển giao. Cổ tức được chi trả bằng cách trình phiếu lãi, nó đã được định ngày chi trả và số chi trả. Hầu hết các chứng khoán phát hành ngày nay, ngoại trừ chứng khoán nước ngoài, đều dưới hình thức đăng ký, kể cả trái phiếu đô thị phát hành từ năm 1983.

BED AND BREAKFAST: Bán trễ mua sớm Chứng khoán được bán vào cuối ngày trên thị trường chứng khoán sau đó được mua lại vào buổi sáng kế tiếp. Nhà mua bán có ý định tạo ra một vụ thua lỗ để bù trừ vào số tư bản kiếm được bị đánh thuế. Nếu giá mua lại ngay kế tiếp rớt giá mạnh so với giá bán thì nhà mua bán không bị lỗ do đó không được bù trừ vào thuế.

BELLY UP: Phá sản Tiếng lóng nói về một người vay, công ty hay dự án phát triển bị phá sản và không có khả năng chi trả cho chủ nợ. Ngoài ra, một ngân hàng hay tổ chức tiết kiệm và cụ thể là tổ chức tài chánh bị cơ quan lập pháp tài chánh đóng cửa.

BELLWETHER: Chứng khoán đầu đàn Chứng khoán được xem như là kim chỉ nam của chiếu hướng thị trường. Trong lãnh vực chứng khoán, chứng khoán IBM (International Business Machines) trong một thời gian dài được xem là kim chỉ nam (chứng khoán đầu đàn) bởi vì các nhà đầu tư thuộc tổ chức sở hữu rất nhiều chứng khoán này và những người này có nhiều khả năng kiểm soát cung và cầu trên thị trường chứng khoán. Các hoạt động mua bán của các tổ chức tài chánh có khuynh hướng ảnh hưởng đến các nhà đầu tư nhỏ và do đó ảnh hưởng đến thị trường nói chung. Trong lãnh vực trái phiếu, trái phiếu kho bạc dài hạn 20 năm được xem là trái phiếu đầu đàn (kim chỉ nam), nó biểu thị chiều hướng mà tất cả các trái phiếu khác có khả năng biến chuyển theo.

BELOW MARKET RATE: Lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường Lãi suất thấp hơn lãi suất thông lệ trong một thị trường đã biết, nó có thể lập ra để giúp đỡ cho người mua có lợi tức thấp hay bình thường, như lãi suất trong thế chấp được trái phiếu Doanh Thu Có Thế Chấp (Mortgage Revenue Bonds) tài trợ, đó là lãi suất ban đầu thấp trong thế chấp có lãi suất điều chỉnh còn gọi là Teaser Rate.

BELOW PAR: Dưới mệnh giá.

BENCHMARK: Định chuẩn, căn bản cho lãi suất, giá cá trên thị trường Mức chuẩn xác cho giá cả, lãi suất của chứng khoán trên thị trường khi so sánh với mức lên xuống của lãi suất đối với trái phiếu nhà nước. Other benchmark Treasury issues increased more sharply. (lãi suất căn bản khác của trái phiếu kho bạc nhà nước tăng mạnh hơn nữa). tuần một lần sẽ thanh toán thế chấp 30 năm dứt điểm trong vòng khoảng 17 năm, làm giảm đáng kể số lệ phí tài chánh cho người vay. Xem : Alternative Mortgage Instruments.

BLACK FRIDAY: Ngày thứ sáu đen tối Thị trường tài chánh rớt giá trầm trọng. Ngày thứ sáu đen tối đầu tiên xảy ra vào ngày 2l-9-1869 khi một nhóm nhà tài chánh cố gắng cô lập (ép giá -corner) thị trường vàng do đó đẩy mạnh sự hỗn loạn kinh doanh tiếp theo sau khủng hoảng (depression – suy thoái kinh tế). Khủng hoảng năm 1873 cũng bắt đầu vào ngày thứ sáu và từ đó từ ngữ ngày thứ sáu đen tối dùng để chỉ sự thất bại nào làm ảnh hưởng đến các thị trường tài chánh.

BLACK KNIGHT: Hiệp sĩ đen, người tiếm quyền Một nhà đầu tư sắp tới sẽ tham gia vào một vụ tiếp thụ (takeover) (Tiếm quyền có hữu ý xấu hay đặt giá mua không ai mong để cố mua các cổ phần có quyền kiểm soát trong công ty).

BLACK MARKET: Chợ đen Thị trường hàng lậu và dịch vụ bất hợp pháp. Chợ đen nổi lên khi thị trường tiêu thụ phát triển (consumer market – thị trường tiêu thụ nhiều hơn sản xuất) hàng cấm hay hàng hiếm. Thị trường chợ đen tăng trưởng mạnh trong nền kinh tế hoạch định và trong những giai đoạn khẩn cấp của quốc gia.

BLACK MONDAY: Ngày thứ hai đen tối Ngày 19-10-1987 khi chỉ số trung bình công nghiệp Dow Jones rớt xuống đến mức kỷ lục là 508 điểm mà tuần trước đó cũng đã rớt mạnh rồi, nguyên do là vì nhà đầu tư lo lắng mức giá chứng khoán bị thổi phồng (quá cao), ngân sách liên bang và cán cân thương mại bị thâm hụt, và ảnh hưởng của hoạt động thị trường nước ngoài. Nhiều người đã đổ tội cho chương trình mua bán bằng hệ thống vi tính đã đưa đến sự lên xuống bất bình thường (bất ổn định) cực điểm này.

BLACK-SCHOLES OPTIONS PRICING MODEL: Công thức toán học được dùng rộng rãi để định giá các hợp đồng option. Mô hình do Fisher Black và Myron Scholes triển khai để phán đoán hợp đồng options có được định giá công bằng hợp lý không. Mô hình liên kết các yếu tố như : bất ổn định (tăng giảm bất thường) của lợi nhuận công ty, mức lãi suất thị trường, mối tương quan của giá chứng khoán cơ sở với giá điểm (strike price – giá thực thi) của hợp đồng option đáo hạn. Các định giá hiện nay sử dụng mô hình này được Options Monitor Service.

BLUE LIST: Bản danh sách xanh (Trái phiếu đô thị). ấn bản tài chánh hàng ngày liệt kê các trái phiếu được đem ra bán bởi khoảng 700 nhà mua bán và các ngân hàng, có mệnh giá hơn 3 tỷ dollar. Bản danh sách xanh phần lớn có nội dung về các dữ kiện thuộc trái phiếu đô thị Với những tin tức về giá hoa lợi và các dữ kiện đúng, bản danh sách xanh là nguồn tin tức đầy đủ để hiểu các hoạt động và khối lượng trong thị trường cấp hai của loại trái phiếu được miễn thuế. Một vài loại trái phiếu công ty do cùng những người buôn bán này đưa ra mua bán cũng được liệt kê trên bản danh sách xanh. Tên đầy đủ của nó là Blue list of Current Municipal Offerings.

BLUE SKY LAWS: Luật bảo vệ nhà đầu tư Tên thông dụng của luật lệ chứng khoán được thiết lập nhằm bảo vệ nhà đầu tư không mua nhầm chứng khoán vô giá trị. Luật lệ này thay đổi theo từng tiểu bang nhưng có chung những điều ngăn cấm tương tự về lừa đảo và quy định đăng ký hầu hết các cổ phần được đem ra bán ngoại trừ trái phiếu đô thị. Nhiều tiểu bang theo khuôn mẫu luật liên bang.

BOARD: Hội đồng

  • Bộ phận lãnh đạo chính thức của một tổ chức ; Hội Đồng Quản trị (Board of Directors) của ngân hàng hay công ty, Hội Đồng Thụ uỷ (Board of Trustees) của ngân hàng tiết kiệm hỗ tương hay Hiệp Hội Tiết Kiệm và Cho Vay.

  • Chữ tắt của Hội Đồng Thống Đốc (Board or Governors) của Hệ Thống Dự Trữ Liên Bang.

  • Tên thông dụng của thị trường chứng khoán, đặc biệt dùng cho NYSE (New York Stock Exchange) hay còn gọi là Big Board.


BOARD BROKER: Người môi giới ở thị trường Chicago Nhân viên của Chicago Board Options Exchange (thị trường mua bán hợp đồng options ở Chicago) người này điều hành các lệnh mua bán chưa phù hợp với thị trường, nên các lệnh này chưa thể thực hiện ngay, lúc đó họ sẽ thông báo cho các thành viên thị trường để những người này thi hành các lệnh đó.

BOARD OF ARBITRATION: Hội đồng trọng tài Nhóm 3 người hay vài người được chỉ định để phán quyết các vụ kiện giữa các công ty chứng khoán và các khách hàng đòi quyền bồi thường do khách hàng đệ trình. Phân xử hai bên (trọng tài phân xử – arbitration) là phương thức được thừa nhận bởi NASD (National Association of Securities Dealers), Municipal Securities Rule Making Board (Hội Đồng Làm Luật về Trái Phiếu Đô Thị) và các thị trường để giải quyết các vụ tranh chấp, nó được áp dụng cho cả công ty thành viên lẫn công ty không là thành viên.

BULGE: Tăng nhất thời Giá cả tăng nhanh và tạm thời – áp dụng cho tất cả hàng hoá hay thị trường chứng khoán, hoặc một loại hàng hoá hay chứng khoán cá nhân nào đó.

BULK FILING: Xử lý nhanh hồ sơ chi phiếu Hoạt động xử lý chi phiếu liên quan đến phân loại thật nhanh chi phiếu và số tồn của các chi phiếu được huỷ theo chu trình soạn sẵn bản kê khai (statement preparation cycle) hơn là theo số tài khoản. Xử lý hàng loạt sẽ tiết kiệm thời gian và sức lao động bởi vì chi phiếu được xếp thành nhóm chỉ một lần theo số tài khoản của khách hàng khi in và phát cho khách hàng các báo cáo tài khoản chi phiếu.

BULL: Người đầu tư giá tăng Người nghĩ rằng giá sẽ tăng. Người ta có thể lạc quan về triển vọng của một loại chứng khoán cá nhân, trái phiếu hay hàng hoá, một mảng của một ngành công nghiệp hay toàn thể thị trường. Trong ý nghĩa tổng quát hơn, bunish có nghĩa là lạc quan, vì thế người ta có thể lạc quan về tổng thể kinh tế.

BULL BOND: Trái phiếu có chiều lên Trái phiếu được gọi là khả năng tăng trị giá trong thị trường có chiều lên (bull market) có nghĩa là khi lãi suất thị trường đang giảm. Trong thực tế hầu hết các trái phiếu sẽ tăng trị giá trong một thị trường có lãi suất giảm, các trái phiếu đặc biệt diễn biến tốt trong thị trường chiều lên là loại trái phiếu riêng về phần vốn có thế chấp bảo đảm (principal only strip mortgage – backed securities) (PO). PO bao gồm toàn thể số chi trả vốn thế chấp hoạt động tốt trong thị trường lãi suất giảm bởi vì người thế chấp tái tài trợ tiền vay của họ theo lãi suất thị trường thấp hơn. Nhà đầu tư được chi trả lại số đầu tư ban đầu nhanh hơn, làm tăng hoa lợi lượng tiền mặt của trái phiếu.

BULL NOTE: Trái phiếu theo chiều lên – trái phiếu có bảo hộ giá Tại Anh, trái phiếu có kèm hợp đồng option bảo hộ giá. Trị giá trái phiếu dựa trên chỉ số tài chánh hay giá hàng hoá vào thời điểm thu hồi. Trị giá thu hồi của loại trái phiếu này cao hơn vốn nếu giá cơ bản (reference price – giá tham khảo) tăng nhưng thấp hơn vốn nếu giá cơ bản giảm.

BULL MARKET: Thị trường theo chiều lên Giá lên của chứng khoán, trái phiếu hay hàng hoá kéo dài nhiều ngày.Thị trường theo chiều lên thường kéo dài ít nhất một vài tháng và có đặc tính là số lượng mua bán cao.

BULL SPREAD: Mua và bán theo chiếu lên Sách lược về hợp đồng option được thực hiện bằng hợp đồng put option và call option – cách này sẽ đem lại lợi nhuận nếu như chứng khoán cơ sở tăng giá. Có 3 loại mua và bán song hành theo chiều lên như sau : – Mua và bán song hành theo chiều đứng: cùng lúc mua và bán hợp đồng options cùng loại với giá điểm (strike price – giá chọn lựa) khác nhau nhưng cùng ngày đáo hạn. – Mua và bán song hành theo lịch: cùng lúc mua và bán hợp đồng option cùng loại, cùng giá nhưng khác ngày đáo hạn. – Mua và bán đong hành theo đường chéo: phối hợp mua và bán song hành theo chiều đứng và theo lịch, theo đó nhà đầu tư mua và bán hợp đồng options cùng loại, nhưng khác giá điểm và khác ngày đáo hạn. Thí dụ, nhà đầu tư tin tưởng rằng chứng khoán XYZ sẽ tăng, có thể là tương đối, nhà đầu tư mua một hợp đồng call option XYZ, giá điểm 30 với phí mua option 11 /2 và bán một hợp đồng call option XYZ giá điểm 35 với phí option 1/2 cả hai hợp đồng đều chưa có lời (out of the money) giá phí thuần của chênh lệch hay chênh lệch giữa hai phí mua options là $1. Nếu chứng khoán tăng lên 35 trước khi đáo hạn, hợp đồng call option giá điểm 35 không còn giá trị và hợp đồng call option 30 có giá trị $5. Vì thế chênh lệch này cho lợi nhuận $4 trên số đầu tư $1. Mặt khác nếu giá chứng khoán giảm, cả hai hợp đồng đáo hạn và không còn giá trị, nhà đầu tư mất toàn bộ phí option.

BLULLDOG BOND: Trái phiếu Bulldog Tại Anh, trái phiếu do con nợ nước ngoài phát hành (người nước ngoài vay tiền phát hành). Trái phiếu Bulldog được tính theo đơn vị đồng Pound Anh, tỷ lệ lợi nhuận cố định và thường chi trả lãi từng 1/2 năm.

BLLET: Chi trả một lần một – ấn định một lần một

  • Trong tài chánh, chi trả lại số cân đối tiền vay trong một kỳ (trong một lần).

  • Trong thị trường chứng khoán, trái phiếu hay giấy nợ được cung cấp theo một lãi suất đã ấn định trước với thời điểm đáo hạn cố định.





    Blogger Comment
    Facebook Comment