Powered by Blogger.

Chuyên đề kỹ thuật nuôi Ba Ba

Ba ba là động vật hoang dã sống ở sông ngòi tự nhiên. Ba ba có 4 loài: Ba ba hoa, ba ba gai, cua đinh và lẹp suối. Trước những năm 90 ngành nuôi trồng thuỷ sản chưa quan tâm đến đối tượng này. Từ 1991 – 1992, giá ba ba trên thị trường tăng cao, một số gia đình ở các tỉnh Hải Hưng, Hà Tây, Hà Bắc đứng ra thu gom ba ba tự nhiên để xuất bán cho Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan, càng về sâu lượng ba ba tự nhiên càng khan hiếm, một số gia đình mua ba ba nhỏ về nuôi lớn lên để xuất bán.



Nghề nuôi ba ba bắc đầu hình thành từ đó.


Tổng kết kinh nghiệm trong nhân dân, một số nhà khoa học đã khuyến khích nhân dân nuôi. Đến năm 1992 tỉnh Hải Hưng đã có gần 200 gia đình nuôi có kết quả và có hiệu quả kinh tế khá, một số gia đình thuộc các tỉnh Hà bắc, Hải Phòng, Hà Tây, Yên Bái học tập làm theo.

Năm 1993 tổ chức khuyến ngư TW (Vụ Nghề Cá) Bộ thuỷ sản đã tổng kết chung và tổng kết kinh nghiệm một số hộ gia đình nuôi khá ở một số tỉnh, tổ chức hội nghị toàn quốc khuyến khích phát triển, sản xuất ba ba giống, nuôi ba ba thương phẩm trong các gia đình.

Thực hiện chủ trương đó nhà nước đã đầu tư cho các tỉnh miền núi, trung du, đồng bằng mỗi tỉnh 1 – 2 mô hình trình diễn, làm cơ sở rút kinh nghiệm mở rộng ra đại trà. Hệ thống khuyến ngư từ trung ương đến các tỉnh đã theo dõi và tổng kết khuyến cáo từng bước mở rộng.

Toàn quốc năm 1992 chỉ mới trên 200 hộ gia đình ở Hải Hưng, Hà Bắc, sau 5 năm khuyến khích hướng dẫn nhân dân đã phát triển lên trên 6.000 hộ. Trước đây chỉ phát triển ở một số tỉnh miền bắc, sau 5 năm đã phát triển ra 3 miền Bắc, Trung, Nam.

Các tỉnh miền núi, trung du: trước năm 1992 chưa có cơ sở nào nuôi, năm 1994 Yên Bái đã tổ chức tham quan Hải Hưng xây dựng mô hình, năm 1997 đã có trên 300 hộ gia đình nuôi, phát triển ra 34 huyện, hình thành 6 chi hội nuôi ba ba. Các gia đình đều có thu nhập và có lãi, có gia đình thu nhập 20-30 triệu đồng. Các tỉnh miền núi khác cũng lần lượt phát triển như huyện Việt Yên (Hà Bắc), cả huyện có tới 700 hộ nuôi, có cả một làng nuôi ba ba như thôn Vân Trung. Ở tỉnh Lâm Đồng từ một mô hình trình diễn nay đã phát triển ra trên 100 hộ gia đình; các tỉnh Đắc Lắc, Sơn La, Lai Châu,

Cao Bằng đều có cơ sở nuôi có hiệu quả, ít bệnh tật, đã và đang có sản phẩm hàng hoá.
Các tỉnh đồng bằng: ngoài Hải Hưng, sau những năm khuyến ngư động viên các cơ sở mở rộng nuôi khá nhanh ở miền Bắc như Hà Bắc, Hà Tây, Hải Phòng. Miền Trung phát triển ở các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Đà Nẵng, Quãng Ngãi, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Phú Yên, Khánh Hoà.

Từ những tỉnh trước đây không có cơ sở nào, sau 3-4 năm đã mở rộng, tỉnh ít nhất là 30-40 hộ gia đình, tỉnh nhiều 700-1200 hộ gia đình. Tỉnh Bình Định từ một mô hình trình diễn thành công, tỉnh đã tổng kết và dành 350 triệu đồng, tiền vốn đầu tư mở rộng ra 11 huyện trong tỉnh. Đặc biệt các tỉnh miền Nam chưa có tập quán nuôi giống ba ba hoa, kinh nghiệm chưa có, sau khi đi tham quan các tỉnh miền Bắc và khuyến ngư phổ biến, nhân dân các tỉnh tiếp thu rất nhanh và đầu tư lớn phát triển nuôi từ Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, An Giang, Kiên Giang, Thành Phố Hồ Chí Minh có trên 1.000 hộ, có hộ đầu tư trên 500 triệu đồng xây dựng cơ sở và trên 1 tỷ đồng mua giống, cho đẻ sản xuất gần 2 vạn con giống, cung cấp đủ cho các tỉnh miền Nam thu về 200-300 triệu đồng 1 năm.

Các tỉnh ven biển: Vùng nước lợ và nước ngọt giao lưu nhau cũng phát triển cơ sở nuôi như Xuân Thuỷ Nghĩa Hưng (Nam Định), Kim Sơn Ninh Bình, Hải Phòng và vùng cuối sông Kinh Thầy (Hải Hưng), các tỉnh Kiên Giang, Bến Tre, Trà Vinh ba ba đều phát triển tốt, thức ăn nhiều, giá thức ăn hạ hơn vùng nội đồng.

Giống nuôi: Từ một động vật hoang dã, sinh sản tự nhiên, sống chủ yếu ở sông suối, đầm hồ lớn, số lượng giống ít. Khi phát động phong trào nuôi chủ động, yêu cầu con giống đặt ra lớn, khuyến ngư đã khuyến khích, tổng kết kinh nghiệm các gia đình nuôi vỗ ba ba bố mẹ và cho đẻ, tự sản xuất lấy giống nuôi. Chỉ sau 2 năm một số hộ của Hải Hưng cho ba ba đẻ, ương ấp được con giống, đã được mở rộng ra các tỉnh Bắc, Trung, Nam cho đẻ và sản xuất được 30 vạn con năm 1994, đến năm 1997 đã sản xuất được 2 triệu con giống, tăng gấp hơn 6 lần năm 1994, cung ứng đủ giống cho nhân dân nuôi, không phải nhập của nước ngoài.

Qua 5 năm chỉ đạo phát triển việc nuôi ba ba, thời gian chưa dài, song đã cho kết quả, chuyển ba ba từ động vật hoang dã thành vật nuôi dưỡng trong gia đình, tạo ra một nghề chăn nuôi mới có thu nhập khá, tạo ra một mặt hàng xuất khẩu tăng thêm việc làm cho nhân dân. Về mặt kỹ thuật bước đầu có một số nhận xét như sau:

1. Môi trường đất, nước có vị trí quyết định quan trọng đến tốc độ lớn, đến bệnh tật của ba ba nuôi

Ba ba thích sống ở sông, suối, đầm, hồ nước sạch, đáy cát hoặc đất sét, ăn động vật : giun, tôm, cá, ốc...

Nuôi ba ba chủ động phải dùng các thức ăn động vật như: trùn quế, tôm, cá, ốc, phế phẩm lò mổ... Thức ăn thừa và phân ba ba thải ra làm cho nước thối bẩn; ở mức độ nhẹ ba ba ít ăn, nặng sẽ không ăn, ba ba gầy đi, bệnh tật phát triển làm cho ba ba chết.

Các ao nuôi ba ba thuộc vùng đất bạc màu, lượng N, P, K trong dất thấp, nước cũng nghèo các chất dinh dưỡng, ao nuôi ba ba có các thức ăn động vật, nước ít bị nhiễm bẩn, ba ba nuôi ít bệnh ăn khoẻ, phát triển nhanh, nước lại được thay dễ dàng. Thực tế nuôi ba ba 5 năm qua của các tỉnh miền núi Yên Bái, Lâm Đồng, Đắc Lắc, ba ba hoa nuôi lớn nhanh, 1 năm nuôi có thể tăng trọng từ 1 kg trở lên, ba ba gai có thể tăng trọng nhanh hơn, ba ba không bị bệnh, trên 300 gia đình nuôi phần lớn đều có lãi, có hộ lãi 30-40 triệu đồng 1 năm. Cơ sở phát triển nhanh, bước đầu có hàng hoá xuất bán.

Huyện Việt Yên (Bắc Giang) là vùng đất bạc màu lượng N, P, K trong đất và nước rất thấp, song nghề nuôi ba ba lại phát triển nhanh trong vòng 3 năm đã có 700 gia đình nuôi. Làng Vân Trung có 180 hộ nuôi từ diện tích ao 15-20m2 đến 200-300m2 đều cho thu nhập khá và có lãi, ba ba lớn nhanh ít bệnh.


Ngược lại các tỉnh đồng bằng: đất nước màu mỡ, lượng muối dinh dưỡng (N, P, K) cao, ba ba nuôi phải thay nước hàng tuần, nếu không nước sẽ dễ thối bẩn do thức ăn thừa và phân thải ra, ba ba ít ăn gầy đi, bệnh tật phát sinh làm cho ba ba chết hoặc chậm lớn, 1 năm nuôi chỉ tăng 200-300g. Vùng nước giao lưu nước ngọt và nước lợ: nuôi ba ba cũng tốt, nước triều lên xuống, nước trong ao được thay đổi thường xuyên, nước sạch ba ba ăn đều nên tốc độ tăng trọng nhanh, nuôi có hiệu quả.

Tóm lại, môi trường đất và nước có vai trò hết sức quan trọng đối với việc nuôi ba ba: nếu đất nước bạc màu, hàm lượng N, P, K trong đất, nước thấp thì thích hợp với việc nuôi ba ba. Vì vậy các tỉnh miền núi, trung du nuôi ba ba tốt hơn các tỉnh đồng bằng đất nước màu mỡ. Vùng đất nước lợ, ngọt giao lưu cũng nuôi ba ba được, vùng này thức ăn nhiều giá thành nuôi hạ, có hiệu quả.

2. Công trình nuôi:

Công trình nuôi được trình bày chi tiết ở phần kỹ thuật. qua thực tế cho thấy, công trình nuôi phải liên hoàn: có ao nuôi ba ba bố mẹ để sản xuất, ba ba giống để nuôi thành ba ba thương phẩm gối vụ nhau, năm thứ nhất đẻ ương nuôi đạt cỡ 200-300g cho năm thứ hai nuôi đối với miền Nam và năm thứ ba nuôi đối với miền Bắc. Bên cạnh ao nuôi ba ba bố mẹ có nơi đẻ, ấp và ương giống. Nuôi ba ba thương phẩm cần chú ý hệ thống bảo vệ và hệ thống thay nước liên hoàn.
Các tỉnh miền núi, trung du cần kết hợp gắn công trình nuôi với suối nước chảy, hệ thống sông máng hồ chứa nước để sử dụng được nguồn nước trong vào thay, tăng nước dễ dàng.
Các tỉnh vùng ven biển: phải gắn với nguồn nước triều lên xuống giữa ngọt và lợ (nồng độ muối 4-5%o), dễ thay nước ba ba ít bị bệnh.

Những nơi đồng bằng: nguồn nước khó khăn, có thể dùng nước giếng khoan bơm lên tăng cường thay nước hoặc ương ba ba giống, giếng nước có hàm lượng sắt cũng giúp cho ba ba đỡ bị bệnh.
Công trình nuôi đều phải xây vững chắc, tường cắm sâu xuống đáy (tránh ba ba đào) trên mặt tường có mũ, góc phải trát nhẵn đánh bóng không cho ba ba leo ra. Tường cao hơn mặt nước cao nhất 0,6 – 0,8m.

3. Về giống nuôi:

Phần sản xuất giống được nói kỹ trong sách. Để cho năng suất, tỷ lệ đạt cao, việc nuôi vỗ ba ba bố mẹ sau khi đẻ là yếu tố quyết định chính lượng trứng và tỷ lệ thụ tinh cao. Ba ba bố mẹ lớn số lượng trứng nhiều, ba ba con nở ra lớn và tỷ lệ sống cao, khoẻ mạnh, khi nuôi thành giống đều, khoẻ, nuôi thành ba ba thương phẩm phát triển nhanh.
Ương ba ba giống thức ăn tốt nhất là giun, cá mè luộc cho ăn ngày 2 lần, sáng và chiều tối. 2-3 ngày phải thay nước. Giống ba ba nuôi tỷ lệ sống cao hơn, nuôi nhanh lớn, ít bệnh hơn.

4. Thức ăn:

Ba ba ăn động vật, bắt mồi tĩnh, không phải động vật đuổi bắt mồi. Các loại cá, tôm băm thái cho ăn phải được rửa sạch nhớt, máu mới thả xuống bãi hoặc giàn cho ăn, tránh làm thối, nhiễm bẩn nước trong ao nuôi.

Thức ăn: tập trung cho ăn tích cực đối với ba ba bố mẹ từ tháng 6,7,8,9 cho ba ba béo, hình thành trứng, qua đông vỗ tiếp ba ba đẻ vào tháng 4, chất lượng sẽ tốt, tỷ lệ nở cao.

Loại thức ăn hiện nay tốt nhất vẫn là cá biển tươi băm thái cho ăn, các loại cá tạp chất lượng kém hơn. Ngoài ra phải bổ sung trùn quế, ốc cho ba ba, nhất là ba ba sinh sản.

ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA BA BA

Hiểu biết đặc điểm sinh học của ba ba là vấn đề cần thiết để giải quyết về kỹ thuật nuôi ba ba. Dưới đây là những đặc điểm chủ yếu mà người nuôi ba ba cần biết;

1. Cách phân biệt nhanh các loài ba ba

Ba ba là động vật thuộc lớp bò sát, bộ rùa, họ ba ba Tryonychidae. Trong họ ba ba có nhiều loài. Các loài thường gặp trên thị trường ba ba ở nước ta có ba ba hoa, ba ba gai, lẹp suối và cua đinh. Ba ba hoa còn gọi là ba ba trơn, phân bố tự nhiên chủ yếu ở các vùng nước ngọt thuộc đồng bằng sông Hồng.

Ba ba gai phân bố tự nhiên chủ yếu ở sông, suối, đầm hồ, miền núi phía Bắc.
Lẹp suối, còn gọi là ba ba suối, thấy ở các suối nhỏ miền núi phía Bắc, số lượng ít hơn ba ba gai, cỡ nhỏ hơn hai loài ba ba trên.

Cua đinh, phân bố tự nhiên ở vùng Tây Nguyên, Đông và Tây Nam bộ, dân các tỉnh phía Bắc gọi là ba ba Nam bộ, ba ba miền Nam để phân biệt với các loài ba ba ở phía Bắc.

Về tên khoa học của các loài ba ba trên, một số tài liệu phân loại đã ghi: Ba ba hoa là Trionyx sinensis, ba ba gai là Tryonyx steinachderi, ba ba Nam bộ là Trionyx cartilagineus. Chúng tôi chưa có điều kiện đi sâu về việc xác định tên khoa học cho ba ba và cách phân loại chi tiết 4 loài ba ba trên. Dưới đây chỉ giới thiệu cách phân biệt nhanh nhất, giúp cho những người nuôi ba ba và người mua ba ba khỏi nhầm lẫn.

Cách phân biệt nhanh nhất là dựa vào màu da bụng và hoa vân trên bụng.
Da bụng ba ba hoa lúc nhỏ màu đỏ, khi lớn màu đỏ nhạt dần, khi đạt cỡ 2 kg trở lên gần như màu trắng. Trên nền da bụng điểm khoảng trên dưới 10 chấm đen to và đậm, vị trí từng chấm tương đối cố định, các chấm đen này loang to nhưng nhạt dần khi ba ba lớn đần, khi đạt cỡ trên 2 kg phải quan sát kỹ mới thấy rõ.

Da bụng ba ba gai màu xám trắng, trên điểm rất nhiều chấm đen nhỏ, làm da bụng có màu xám đen lúc nhỏ và xám trắng lúc lớn.
Ba ba suối da bụng màu vàng bóng, không có chấm đen.
Ba ba Nam bộ da bụng màu trắng, không có chấm đen.
Ngoài da bụng, có thể căn cứ vào các nốt sần trên lưng, trên diềm cổ, và trên cổ của ba ba để phân biệt chúng.

2. Tập tính sinh sống của ba ba:


Ba ba có một số tập tính sinh sống đặc biệt:

Tuy là động vật sống hoang dã, nhưng rất dễ nuôi trong ao, bể nhỏ.

Sống dưới nước là chính, nhưng có thể sống trên cạn và có lúc rất cần sống trên cạn. Ba ba thở bằng phổi là chính nên thỉnh thoảng phải nhô lên mặt nước để hít thở không khí. Mùa đông lạnh, cường độ hô hấp nhỏ, ba ba có thể rút trong bùn ở đáy ao, dựa vào cơ quan hô hấp phụ trong cổ họng để thở, cơ quan hô hấp phụ tựa mang cá, ba ba lấy oxy trong nước và thải CO2 trong máu vào nước qua cơ quan này. Ba ba lên khỏi mặt nước khi có nhu cầu di chuyển, đẻ trứng, phơi lưng...

Vừa biết bơi, vừa biết bò, leo, biết vùi mình nằm trong bùn cát, đặc biệt có thể đào hang trú ẩn, đào khoét bờ ao chui sang ao bên cạnh.

Ba ba nhút nhát lại vừa hung dữ. Ba ba thích sống nơi yên tĩnh, ít tiếng ồn, kín đáo. Khi thấy có tiếng động mạnh, có bóng người hay bóng súc vật đến gần, chúng lập tức nhảy xuống nước lẩn trốn. Tính hung dữ của ba ba thể hiện ở chỗ hay cắn nhau rất đau, con lớn hay cắn và ăn tranh mồi của con bé, bị đói lâu có thể ăn thịt con bé. Khi có người hoặc động vật muốn bắt nó, nó có phản ứng tự vệ rất nhanh là vươn cổ dài ra cắn.

3.Tính ăn:

Ba ba thuộc loài ăn thức ăn động vật.
Ngay sau khi nở một vài giờ, ba ba đã biết tìm mồi ăn. Trong tự nhiên thức ăn chính trong mấy ngày mới nở là động vật phù du (thủy trần), giun nước (trùng chỉ) và giun quế loại nhỏ. Khi lớn ba ba ăn cá, tép, cua, ốc, giun đất, trai, hến... Trong điều kiện nuôi dưỡng, có thể cho ba ba ăn thêm thịt của nhiều loại động vật rẻ tiền khác, đồng thời có thể huấn luyện cho ba ba biết ăn thức ăn chế biến ( thức ăn công nghiệp) ngay từ giai đoạn còn nhỏ.

4. Sinh trưởng:

Ba ba hoa lúc mới nở có quy cỡ từ 3-6g/ con; Ba ba gai và ba ba Nam bộ cỡ lớn hơn. Tốc độ lớn của ba ba phụ thuộc vào loài, kỹ thuật nuôi và điều kiện môi trường nuôi. Từ cỡ giống 100-200g/con, sau khi nuôi 6-8 tháng, ba ba hoa có thể đạt cỡ 0,5-0,8kg/con đối với miền Bắc; từ 0,8 – 1kg/ con đối với miền Nam. Ba ba gai nuôi có tốc độ lớn nhanh gấp đôi hoặc trên gấp đôi ba ba hoa.

5. Sinh sản:

Ba ba hoa cỡ 0,5kg mới bắt đầu đẻ trứng lần đầu, tuổi tương ứng là 2 năm. Ba ba gai cỡ 2 kg trở lên mới bắt đầu đẻ trứng. Trứng ba ba thụ tinh trong.

Ba ba sống dưới nước, nhưng đẻ trứng trên cạn. Đến mùa đẻ, thường là vào mùa mưa, ba ba ban đêm bò lên bờ sông, bờ ao, hồ tìm chỗ kín đáo, có đất cát ẩm và tơi xốp bới tổ đẻ trứng. đẻ xong chúng dùng 2 chân trước cào đất lắp kín trứng, dùng bụng xoa nhẵn mặt đất ổ trứng rồi xuống nước sinh sống, không biết ấp trứng. trứng nằm trong ổ, trải qua mưa nắng và các điều kiện không thuận lợi về dịch hại, sau 50-60 ngày nở thành ba ba con, điều kiện ấp tự nhiên này tỷ lệ nở rất thấp. Trong điều kiện nuôi, con người có thể tạo chỗ cho ba ba đẻ thuận lợi hơn và có nhiều phương pháp ấp trứng đảm bảo tỷ lệ nở cao trên dưới 90%.

Trứng ba ba phần lớn hình tròn như hòn bi, màu trắng. Ba ba càng lớn đẻ trứng càng to và càng nhiều. Ba ba hoa cỡ khoảng 500g đẻ 1 lứa từ 4-6 trứng, đường kính trứng từ 17-19mm, trọng lượng 3-4g/quả. Ba ba hoa cỡ 1-1,5kg mỗi lứa đẻ từ 8-15 trứng, đường kính trứng 20-23mm, trọng lượng 4-7g; ba ba cỡ 2-3kg có thể đẻ 20-30 trứng một lứa. Trứng ba ba gai lớn hơn trứng ba ba hoa. Ba ba Nam bộ cỡ 4-4,5kg/con, đẻ trứng nặng từ 20-25g/quả.

Ba ba có thể đẻ từ 2-5 lứa trong 1 năm, ba ba cái càng lớn, chế độ nuôi vỗ cho ăn càng tốt đẻ càng nhiều lứa, mỗi lứa cách nhau từ 25-30 ngày.

Tại các tỉnh phía Bắc, một số gia đình có sổ ghi chép theo dõi, bình quân cả đàn ba ba nuôi trong ao 1 năm đẻ 3, 5 lứa, số trứng ba ba đẻ thu được từ 40-55 quả trên 1kg ba ba cái cỡ từ 1-1,5kg.

6. Tính thời vụ rất rõ rệt giữa 2 vùng:

Ba ba hoa nuôi ở các tỉnh phía Bắc: một số con đẻ sớm vào cuối tháng 3 hoặc đầu tháng 4 ( dương lịch ), đẻ rộ trong các tháng 5,6,7 sau đó đẻ rải rác tiếp các tháng 8,9,10, cuối tháng 10 là kết thúc vụ đẻ.

Thời vụ nuôi bắt đầu vào cuối tháng 3 đến đầu tháng 12. Từ giữa tháng 12 đến hết tháng 2 thời tiết lạnh nhiệt độ nước dưới 180C, có khi dưới 150C ba ba không ăn và không lớn. Các tháng ba ba sinh trưởng nhanh nhất là từ tháng 5 đến tháng 10.

Ba ba hoa nuôi ở các tỉnh miền Trung và phía Nam: hầu như ăn mồi quanh năm, sinh trưởng liên tục và đẻ quanh năm, do khí hậu ấm áp quanh năm không có mùa đông lạnh như các tỉnh phía Bắc. Trong vùng này, nhiệt độ nước các ao nuôi ba ba trong năm dao động chủ yếu trong phạm vi từ 24-32oC, ít khi dưới 22oC hoặc trên 33oC. Những nơi có điều kiện cấp nước tốt có thể khống chế được nhiệt độ nước trong phạm vi thích hợp nhất từ 26-30oC.

KỸ THUẬT LÀM AO NUÔI BA BA

Nuôi ba ba hiện nay chủ yếu là hình thức nuôi trong từng gia đình, mỗi gia đình có từ một đến vài ao nuôi, có gia đình chuyên nuôi ba ba thịt, có gia đình chuyên sản xuất ba ba giống, có gia đình chỉ làm một công đoạn ương ba ba giống. Số gia đình, cơ sở nuôi ba ba có hàng chục ao các loại, xây dựng thành trại nuôi ba ba hiện không nhiều.

Muốn nuôi ba ba có kết quả tốt, điều quan trọng đầu tiên là phải xây dựng được ao nuôi phù hợp với điều kiện sống của ba ba và quản lý được đàn ba ba nuôi.

Xây dựng ao nuôi ba ba cần phải đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật chủ yếu sau:

1. Điều kiện về nguồn nước và chất nước:

a) Có nguồn nước cấp bảo đảm đủ nước nuôi quanh năm, có thể chủ động tháo nước và thay nước khi cần. Ao có nguồn nước cấp dồi dào, có điều kiện thay nước luôn có thể áp dụng kỹ thuật nuôi thả mật độ dày, cho ăn thoã mãn để đạt tốc độ lớn và năng suất cao. Điều kiện cấp nước không chủ động, thay nước khó khăn chỉ nuôi được mật độ thưa, năng suất thấp hoặc vừa phải.

Cần nhất là trong mùa nắng nóng, trong trường hợp nắng kéo dài, ao nuôi ba ba vẫn giữ được mức nước nuôi ở độ sâu thích hợp. Thuận tiện nhất là sử dụng nguồn nước tự chảy, nguồn nước từ sông, suối, kênh, mương, đầm hồ lớn. Nuôi quy mô nhỏ, nhu cầu lượng nước cấp không nhiều, có thể sử dụng nước giếng khoan, giếng xây. Ngoài ra một số nơi có điều kiện có thể sử dụng mạch ngầm hoặc nguồn nước ấm để nuôi trong mùa đông (đối với vùng núi và miền Bắc).

b) Nguồn nước cấp cần sạch, không bị ô nhiễm bởi nước thải hoặc thuốc trừ sâu, pH từ 6,5 - 8, hàm lượng oxy cao 4mg/l trở lên. Nơi không có điều kiện phân tích nước, có thể lấy nước sinh hoạt tắm giặt bình thường để làm tiêu chuẩn. Đối với vùng gần biển, nơi có ảnh hưởng của thuỷ triều và nước lợ, độ mặn của nguồn nước cấp cho ao nuôi ba ba không quá 3-4%o.

2. Các yêu cầu kỹ thuật về xây dựng ao nuôi:

a) Nên xây dựng ao nuôi ở nơi yên tĩnh, kín đáo, không bị cớm rợp, dễ thoát nước, không bị úng ngập, có nguồn nước cấp độc lập để bảo đảm cấp nước sạch.

b) Diện tích ao rộng hẹp vừa phải. Ao rộng nuôi dễ lớn nhanh, nhưng khó quản lý, đầu tư lớn mới có năng suất sản lượng cao. Ao hẹp dễ quản lý, nhưng nuôi chậm lớn hơn ao rộng. Diện tích thích hợp với từng loại ao các nơi ta lựa chọn như sau:
Ao nuôi ba ba bố mẹ từ 100-200m2/ao, lớn nhất không nên quá 400m2.
Ao nuôi ba ba thịt từ 100-200m2/ao, lớn nhất không quá 1.000m2.
Bể ương ba ba giống từ mới nở đến 1 tháng tuổi: 1-10m2/bể. Nên xây nhiều bể nhỏ ương riêng rẽ ba ba nở cùng thời gian 1-2 ngày vào 1 bể.
Ao, bể ương ba ba giống từ 2-3 tháng tuổi: 10-50m2.
Ao, bể ương ba ba giống lớn (4-6 tháng tuổi) từ 50-150m2. Giai đoạn này ương trong ao tốt hơn ương trong bể xây.

c) Độ sâu thích hợp (tính từ đáy ao lên đỉnh bờ):
Ao nuôi ba ba bố mẹ từ 1,5-2m, có mức nước chứa thường xuyên từ 1,2-1,5m, thời gian nắng nóng và mùa rét cho nước sâu thêm 20-30cm.

Ao nuôi ba ba thịt từ 1,5-2m, có mức nước chứa thường xuyên 1-1,2m. Thời gian nắng nóng và mùa rét cho nước sâu thêm 20-30cm. Đáy ao nuôi ba ba thịt và ba ba bố mẹ tốt nhất vừa có chỗ nông vừa có chỗ sâu, để thích hợp với điều kiện tự nhiên của ba ba.

Bể ương ba ba mới nở: từ 0,5-0,6m, chứa nước sâu từ 10cm (lúc đầu) đến 40cm (cuối giai đoạn ương).

Bể ương ba ba giống cỡ 2-3 tháng tuổi từ 0,7-1m, chứa nước sâu từ 0,4-0,6m.

Bể ương ba ba giống lớn (4-6 tháng tuổi): từ 0,8-1,2m, chứa nước sâu 0,6-0,8m. Ao ương sâu từ 1-1,5m, chứa nước sâu 0,8-1m.

Ao quá rộng và quá sâu không thuận lợi cho công tác quản lý trong quá trình nuôi.

d) Mỗi ao có cống cấp nước và thoát nước riêng. Cống thoát nước có điều kiện nên đặt sát đáy ao để dễ tháo cạn và hút bỏ chất cặn bẩn trong ao. Cấp nước vào ao nên cho chảy ngầm, không xối mạnh trên mặt nước làm ba ba sợ hãi không có lợi cho sinh trưởng.

e) Có chỗ cho ba ba nghĩ ngơi dưới nước và trên bờ.

Ba ba ăn no xong thường tìm chỗ nghĩ ngơi thích hợp, rất hay vùi mình xuống bùn, chỉ để hở trên bùn 2 lỗ mũi để thở. Khi yên tĩnh, nhất là vào các buổi nắng ấm, ba ba còn hay bò lên bờ hoặc trèo lên vật nổi trên mặt ao để phơi nắng (có nơi gọi là phơi lưng, tắm nắng...) cho đến khi mặt da khô hết nước dính mới xuống nước trở lại. Ba ba phơi nắng như vậy có tác dụng rất tốt, có thể tự chữa khỏi các bệnh nấm nước, bệnh lỡ loét khi vết thương còn nhẹ. Trên thực tế thì những ao nuôi không có điều kiện cho ba ba phơi nắng, ba ba rất hay bị bệnh.

Cách tạo chỗ cho ba ba rúc nằm dưới đáy ao:

Vét hết bùn bẩn trong ao, để đáy trơ, sau đó đổ lớp cát non (cát mịn sạch) hoặc cát pha bùn sạch lên trên, diện tích rải cát bùn từ 20-100% diện tích đáy ao, bể, tuỳ mật độ nuôi dày hay thưa; chiều dày lớp cát bùn từ 4-15cm tuỳ theo cỡ ba ba lớn nhỏ, bể ương ba ba mới nở chỉ cần lớp cát dày 3-4cm, ao nuôi ba ba bố mẹ hoặc ba ba thịt đã lớn lớp cát cần dày 10-15cm, đủ cho ba ba vùi kín mình 3-5cm. Không nên dùng cát thô (cát già), cát bẩn có lẫn nhiều mảnh cứng sắc cạnh rải đáy cho ba ba nằm vì ba ba tạo lực xoáy rất mạnh, dễ bị cọ sát mất nhớt, rách da chảy máu và từ chỗ chảy máu dễ bị nhiễm trùng sinh bệnh. Đáy đổ cát mịn dễ xử lý hơn đáy bùn mỗi khi cần tẩy dọn ao, nhưng một số người cho rằng để đáy bùn sạch nuôi ba ba bóng đẹp hơn. Cũng không nên dùng lớp bùn cát quá dày, vừa tốn cát, vừa khó xử ký khi bắt ba ba mỗi khi cần tẩy dọn ao và thay cát đáy.

Có nhiều cách tạo chỗ cho ba ba bò lên phơi nắng: Đơn giản nhất là thả một số vật nổi như bó tre, nứa (cả cây), cây gỗ, tấm gỗ, tấm phên...

Tạo lối cho ba ba bò từ ao lên bờ, có thể là một luống đất ria ao hoặc cả một vườn cây cạnh ao. Riêng ao nuôi ba ba bố mẹ không làm kiểu này.

Đắp ụ trong ao hoặc xây bệ nổi trên mặt ao, có cầu cho ba ba lên xuống. Cũng có thể lát nghiêng một đầu ao, bể, độ dốc vừa phải, phần ngập dưới nước là chỗ để cho ba ba ăn, phần cao trên mặt nước là chỗ cho ba ba phơi mình, diện tích phần lát từ 10-20% diện tích ao, tuỳ theo mật độ nuôi dày hay thưa.

f) Có chỗ cố định cho ba ba ăn để dễ theo dõi sức ăn của ba ba và để làm vệ sinh khu vực ăn. Đơn giản nhất là cho thức ăn vào rổ, rá, nia, mẹt, khay, buộc dây treo ngập nước từ 0,3-0,6m cho ba ba ăn, khi cần thì nhấc lên như nhấc vó. Có thể xây một bệ máng ở một góc ao, rộng 0,4 - 0,6m, ngập dưới nước 0,3-0,6m. Ao bể nhỏ và nông, đáy sạch có thể thả thức ăn trực tiếp xuống đáy ao cho ăn, nên chọn vị trí gần cửa cống tháo nước để dễ tháo hút chất cặn bẩn thức ăn thừa hàng ngày. Có thể luyện cho ba ba quen ăn ở ngay sát mép nước.

g) Các chỗ ba ba hay bò leo như đáy bể, sườn ao, bể các gốc tường xây nên xây phẳng, có điều kiện nên trát vữa nhẵn để ba ba khó leo và không bị xướt da bụng dẫn đến nhiễm trùng sinh bệnh.

h) Chống được ba ba vượt ao ra ngoài đi mất:

Cửa cống tháo nước và cấp nước cần bịt bằng lướt sắt.

Ao nuôi ba ba bố mẹ cần xây bờ từ đáy lên, đỉnh bờ xây cao hơn mặt nước chứa trong bể từ 0,2-0,5m (tùy bể to nhỏ). Đỉnh tường và các góc tường xây gờ chắn rộng 5-10cm (tùy bể to nhỏ) nhô về phía lòng ao.

Ao nuôi ba ba thịt không nhất thiết phải xây bờ từ đáy lên như ao nuôi ba ba bố mẹ, nhưng cần xây tường hoặc rào chắn xung quanh. Ao nuôi trong vườn, có thể dựa vào tường xây bảo vệ chung cả khu vườn. Các ao đất rộng có thể dùng tấm tôn, tấm nhựa rào chắn xung quanh bờ.

Bờ đất giữa 2 ao cần đắp chắc chắn, không để có lỗ rò rĩ nước, ba ba có thể đào khoét rộng chui đi mất.

i) Có chỗ thích hợp cho ba ba đẻ trứng:

Ao chuyên nuôi ba ba bố mẹ sinh sản cần xây “nhà đẻ" hoặc “phòng đẻ” cho ba ba ở rìa ao để ba ba tập trung đẻ nhanh, không mất trứng, giảm tỷ lệ trứng hư hỏng. Nhà đẻ xây ở một phía bờ ao, có cửa thông với ao rộng 0,5-0,6m có lối dốc thoai thoải cho ba ba bò lên. Diện tích nhà đẻ từ 2-6m2, mỗi m2 cho 15-20 con vào đẻ. Nền nhà đẻ cao hơn mực nước ao 0,4-0,5m để không bị ngập nước. Dùng gạch xây xung quanh, trong đổ cát sạch , ẩm (nên dùng cát mịn, để cát ướt nhão hoặc khô rời, ba ba không đẻ), lớp cát dày 20-25cm để ba ba bới tổ đẻ trứng. Nhà đẻ cần lợp mái che mưa nắng, tạo yên tĩnh cho ba ba vào đẻ. Đáy nền nhà đẻ cần có lỗ thoát nước, không để cát bị đọng nước làm hỏng trứng.

Các ao không làm nhà cho ba ba đẻ, ba ba phải tự tìm chỗ thích hợp xung quanh bờ ao để đẻ trứng, trứng dễ bị thất lạc và hư hỏng nhiều.

KỸ THUẬT SẢN XUẤT BA BA GIỐNG

Từng gia đình có thể tự sản xuất ba ba giống để nuôi hoặc để kinh doanh. Những năm vừa qua đã có khoảng 10-15% số hộ gia đình nuôi ba ba chuyên sản xuất ba ba giống để bán, có người bán loại từ mới nở đến 1 tháng tuổi là chính, có người mua loại mới nở về ương thành con giống cỡ 15-20g hoặc từ 50-150g để bán kiếm lời, có người mua giống nhỏ về ương thành giống lớn hoặc mua giống về nuôi thành ba ba thịt. Từ năm 1996 trở về trước, giống ba ba khá đắt nhưng vẫn không đủ cung cấp cho người nuôi. Sang năm 1997, giá ba ba giống giảm hơn các năm trước, một phần do ảnh hưởng của giá ba ba thịt giảm, một phần do nhiều người sản xuất, lượng ba ba giống trên thị trường nhiều hơn các năm trước, đồng thời cũng bị ảnh hưởng ít nhiều của ba ba giống nhập nội thấp

Những năm tới muốn phát triển sản xuất ba ba giống có lãi nhiều cần đặc biệt lưu ý áp dụng tiến bộ kỹ thuật để tăng năng suất, hạ giá thành sản xuất ba ba giống.

Sản xuất ba ba giống gồm 3 khâu kỹ thuật chủ yếu: nuôi vỗ ba ba bố mẹ sinh sản, thu trứng và ấp trứng, ương nuôi ba ba giống.

Dưới đây chúng tôi xin lần lượt giới thiệu những tiến bộ kỹ thuật đã được tổng kết, nên mở rộng việc áp dụng

1. Nuôi vỗ ba ba bố mẹ (nuôi ba ba sinh sản, nuôi ba ba đẻ trứng)

Chỉ tiêu chính đánh giá trình độ kỹ thuật của khâu này là năng suất đẻ trứng và tỷ lệ trứng thụ tinh cao. Năng suất đẻ trứng còn nhiều người mới đạt mức trên dưới 20 trứng trên 1kg ba ba cái trong 1 năm, trong lúc những người nuôi có kỹ thuật tốt đã đạt 45-50 trứng. Tỷ lệ trứng thụ tinh, nhiều người mới đạt mức trên dưới50% số trứng ba ba đẻ ra và thu được, trong lúc người có kỹ thuật tốt đạt trên dưới 80% vào đầu vụ và trên 90% vào chính vụ, có những người nuôi ít, đạt 95-100%. Số người chưa đạt các mức trung bình trên cũng còn khá nhiều.

Muốn đạt các chỉ tiêu cao cần thực hiện tốt các vấn đề kỹ thuật sau:

a) Xây dựng ao nuôi phù hợp với các yêu cầu sinh sản của ba ba.

b) Làm tốt công tác chuẩn bị ao nuôi. Ao, bể mới xây cần ngâm rữa nhiều lần, thử nước đảm bảo độ pH thích hợp (từ 7-8) mới thả ba ba vào. Ao nuôi sau một vụ, trước khi nuôi vụ mới cần tẩy dọn sạch để diệt mầm bệnh. Khi thấy cần thiết, phải thay lớp bùn cát đã bị thối bẩn nặng.

c) Nuôi đúng thời vụ. Các tỉnh phía Bắc phải bắt đầu nuôi vỗ từ tháng 8, tháng 9 để đến khi bắt đầu rét, ba ba bố mẹ đã béo khoẻ, sang Xuân chuyển hoá tuyến sinh dục nhanh, đẻ sớm. Sau khi đẻ xong lứa thứ nhất, tiếp tục nuôi vỗ để ba ba đẻ các lứa thứ 2, 3, 4...
Các tỉnh phía Nam có thể nuôi vỗ cho đẻ quanh năm, nhưng nên nuôi vỗ sớm để ba ba đẻ tập trung các tháng từ tháng 1 đến tháng 2, tránh cho ba ba đẻ vào các tháng có nhiệt độ cao.

d) Chọn ba ba bố mẹ có các tiêu chuẩn tốt về hình dạng, sức khoẻ và qui cỡ. Không sử dụng ba ba đã có bệnh. Cỡ chọn nuôi nên từ 1kg trở lên với ba ba hoa, 2kg trở lên với ba ba gai. Trong phạm vi 4kg trở lại, cỡ nuôi càng lớn chất lượng trứng càng tốt, ba ba con nở ra càng khoẻ và mau lớn. Ba ba đực cái thả chung một ao, nhưng phải đồng cỡ, tránh thả lẫn một số con lớn gây uy hiếp đối với những con nhỏ. Số lượng nuôi 1 ao cần thả đủ 1 lần, không thả rải rác.

e) Phối ghép tỷ lệ đực/cái thích hợp. Hiện nay nhiều người cho rằng tỷ lệ thích hợp nhất là 1/2,5-3 (một con đực ghép với 2,5 đến 3 con cái). Tuy nhiên, có một số người nuôi ghép tỷ lệ 1/4 đến 1/5 vẫn đạt kết quả tỷ lệ trứng thụ tinh cao. Thả nhiều ba ba đực có hại vì chúng hay cắn nhau sinh bệnh, hay quấy nhiễu ba ba cái làm ba ba cái sinh sản không bình thường, lại vừa tốn thức ăn.

f) Lựa chọn mật độ nuôi thích hợp. Những năm qua đã có người nuôi mật độ cao tới 2-3kg/m2, nhưng trong điều kiện nuôi bình thường, mật độ nuôi phổ biến và thích hợp chỉ nên từ 0,5-1kg/m2 hoặc 0,5-1 con/m2. Nuôi mật độ dày hơn, điều kiện cho ăn và thay nước không đầy đủ, ba ba đẻ kém , dễ sinh bệnh.

g) Chăm sóc và quản lý tốt.

2. Thu trứng và ấp trứng ba ba:

Trứng ba ba ấp nở tự nhiên tỷ lệ nở rất thấp, thời gian ấp nở lâu.

Muốn ấp nở nhanh, tỷ lệ nở cao cần phải có kỹ thuật.

Hiện nay, những người sản xuất giỏi có thể đạt tỷ lệ nở trên dưới 90%, có người đạt 100% so với số trứng thụ tinh đem ấp và rút ngắn được thời gian ấp nở từ 5-10 ngày so với bình thường.

Muốn ấp nở tốt, trước hết phải biết kỹ thuật thu trứng. Nên theo dõi ba ba đẻ, thu trứng vào các buổi sáng, lúc ba ba đẻ rộ thu hàng ngày, lúc ba ba đẻ thưa 3-5 ngày thu 1 lần, không nên để ba ba đẻ sau 15-20 ngày mới thu trứng đem ấp. Các quả trứng nhỏ, hình dạng không bình thường và trứng không thụ tinh cần loại ngay, chỉ giữ trứng thụ tinh để ấp. Trứng thụ tinh phần lớn tròn, vỏ trứng có màu sắc bình thường, phần trên màu trắng là túi chứa hơi để phôi thở, phần dưới màu phớt hồng là phần phôi và noãn hoàn (lòng đỏ trứng). Trứng hỏng (không thụ tinh) màu sắc không bình thường, hay có vết đốm loang lỗ , không phân biệt rõ 2 phần như trứng thụ tinh. Cần ghi chép các số liệu từng ao nuôi về ngày đẻ, ngày thu trứng ấp, số lượng trứng thu được, số lượng trứng thụ tinh... để giúp cho việc xử lý kỹ thuật ấp và dự đoán kết quả nuôi vỗ, tỷ lệ nở...

Cách ấp trứng: Nên ấp trong nhà hoặc có phòng ấp riêng để tránh nhiệt độ thay đổi bất thường và bảo vệ được trứng. Dụng cụ ấp trứng thường dùng khay, chậu bằng nhôm, sắt tráng men hoặc bằng nhựa. Diện tích khay, chậu to nhỏ tuỳ theo số lượng trứng cần ấp. Một chậu rửa mặt thông thường có thể ấp trên dưới 100 trứng, một chậu nhôm to có thể ấp trên dưới 300 trứng.

Khay chậu ấp có chiều cao trên 10cm, trong đổ cát sạch mịn, ẩm và tơi xốp, lớp cát dày 7-8cm (cách miệng khay, chậu 3-4cm), đáy khay chậu có lỗ thoát nước để tránh cát ấp bị đọng nước làm hỏng trứng ấp. Nhặt trứng thụ tinh rải đều trên mặt cát, quả cách quả 2cm, đầu có túi hơi để phía trên (chú ý không đặt ngược, không đặt nghiêng), khi đủ 1 lớp trứng thì lấy cát bột rải lên trên cho kín, lớp cát cao hơn trứng 2-3cm. Để khay trứng vào nơi yên tĩnh để ấp. Nếu có điều kiện xác định, nên khống chế hàm lượng nước trong cát ẩm từ 7-10% (cát ẩm cho lên tay bóp vẫn rời không vón cục) và độ ẩm không khí trong phòng ấp khoảng 85%.

Ngoài ấp phổ biến bằng khay, chậu, các cơ sở sản xuất lớn hàng ngàn, hàng chục ngàn trứng có thể xây phòng ấp, bể ấp chuyên hoặc dùng máy ấp trứng nhập từ nước ngoài.


Quản lý việc ấp trứng là nhiệm vụ rất quan trọng trong thời kỳ ấp từ 50-55 ngày. Cần nhất là giữ cho nhiệt độ và độ ẩm cát ấp được ổn định. Cách 1-2 ngày lớp cát trên mặt bốc hơi bị khô, cần phun nước cho ẩm trở lại bình thường, nước phun cần từ từ, đặc biệt tránh dội nước làm cho nhiệt độ cát ấp bị thay đổi đột ngột, phôi trứng sẽ chết. Trong những ngày mưa lớn hoặc ban đêm nhiệt độ không khí xuống thấp dưới 25oC, cần có biện pháp tăng nhiệt độ phòng ấp (nơi có điện có thể thắp bóng điện 100-200W để toả nhiệt, cần che đèn cho nhiệt độ toả đều, nếu không che có chỗ sẽ bị quá nóng, trứng sẽ bị chết).

Những ngày quá nóng, phòng ấp nên để thoáng gió hoặc làm mát bằng quạt... Nhiệt độ ấp thích hợp nhất là ổn định từ 30-32oC, ở nhiệt độ này thời gian ấp chỉ 45-50 ngày; nhiệt độ ấp cao hơn 1-2 độ thời gian ấp có thể rút ngắn 4-5 ngày nhưng để không an toàn. Dưới 20oC và trên 35oC phôi trứng bị chết, ấp không nở được. Khi thấy trứng sắp nở (mổ mỏ, có chỗ nứt vỏ) cần đặt khay nước sạch hoặc bát nước vào giữa khay, chậu ấp trứng, ba ba con nở ra biết tự bò vào nước; cũng có thể kê khay chậu ấp trứng trên 1 chậu to hoặc bể con, trong chậu hoặc bể chứa nước, ba ba con nở ra tự nhảy vào nước. Nếu không để sẵn nước, ban đêm chậm biết, ba ba con bị khô da sẽ chết.


Quá trình quản lý ấp trứng, có thể bới cát kiểm tra trứng, nhưng không được đảo trứng, đồng thời cần có các biện pháp bảo vệ không cho kiến, chuột, rắn, mèo, gà lọt vào ăn hại trứng và ba ba con.
Nhặt ba ba mới nở vào chậu nước sạch, chọn những con khoẻ mạnh, đã “ rụng rốn” để đưa vào bể ương.

3. Ương nuôi Ba ba giống:

Để đảm bảo ương từ ba ba mới nở thành ba ba giống có tỷ lệ sống cao, nên chia thành 3 giai đoạn ương. Dưới đây chủ yếu giới thiệu kỹ thuật ương ba ba hoa.

Giai đoạn 1: Ương từ lúc mới nở cỡ 4-6g thành cỡ 15-25g. Thời gian ương nhanh từ 25-30 ngày. Chăm sóc kém thời gian có thể kéo dài gấp đôi. Ba ba nở đầu vụ và giữa vụ, đúng mùa sinh trưởng ương lớn nhanh hơn ba ba nở cuối vụ. Ba ba mới nở do quy cỡ còn nhỏ, sức yếu, cơ quan tiêu hoá chưa hoàn chỉnh nên cần được chăm sóc tỉ mỉ trong các bể nhỏ có diện tích từ 1m2 đến 10m2. Mức nước trong bể ương từ 10-15cm mấy ngày đầu tăng dần đến 40cm vào cuối tháng. Không nên để nước quá sâu vì ba ba con luôn phải ngoi lên mặt nước thở, tốn năng lượng, ảnh hưởng đến sức khoẻ. Mặt bể có thể thả bèo tây non, sạch cho ba ba con nằm thở giáp mặt nước. Mật độ ương trung bình 50 con/m2, có thể ương dày 100-150 con/m2 nhưng sau 10-15 ngày phải san thưa, cho ăn đầy đủ và thay nước luôn. Cho ăn trùn chỉ (giun đỏ), giun đất, trùn quế, thả vào khay đưa xuống bể cho ba ba ăn vào sáng sớm hoặc chiều tối. Quản lý chăm sóc tốt, tỷ lệ sống đạt 90-100%.

Giai đoạn 2: Ương từ cỡ giống 15-25g thành cỡ giống 50-80g, thời gian ương nuôi cần 2-3 tháng với ba ba nở đầu vụ. Giai đoạn này tốt nhất vẫn nên ương trong bể xây cỡ 20-30m2 hoặc trong ao nhỏ cỡ 50-100m2. Mật độ ương trung bình 25-30 con/m2. Cho ăn no đủ bằng giun đất, cá mè luộc chín, gỡ ra thả xuống bể cho ba ba vào sáng, chiều. Quản lý chăm sóc tốt có thể đạt tỷ lệ sống 90-100%. Ương nuôi kém, sau 3 tháng chưa đạt quy cỡ nêu trên.

Giai đoạn 3: Ương cỡ giống nhỏ 50-80g thành cỡ giống lớn 100-150g, con to trên 200g. Thời gian ương cần 2-3 tháng, nếu thả qua mùa đông thì mất 5-6 tháng. Giai đoạn này nuôi trong ao đất lớn nhanh hơn trong bể xây. Diện tích bể ương trên dưới 50m2, diện tích ao ương 100-150m2. Mật độ ương trung bình 7-10 con/m2, cao nhất 15 con /m2. Cho ăn no đủ bằng cá mè luộc, gỡ cho ăn, cũng có thể cá băm nhỏ cho ăn vào sáng, chiều. Quản lý chăm sóc tốt, tỷ lệ sống có thể đạt 90-100%.
Cần định kỳ 1 tháng kiểm tra 1 lần để phân cỡ, tách con to con nhỏ nuôi riêng ao. Quá trình nuôi cần đảm bảo ao bể ương có nhiệt độ thích hợp từ 25-33oC.

KỸ THUẬT NUÔI BA BA THỊT

Ba ba thịt còn gọi là ba ba thương phẩm, quy cỡ xuất bán từ 0,4kg trở lên, chủ yếu từ 0,5-0,8kg/con. Hiện thị trường trong nước nhu cầu còn ít, sản phẩm nuôi được chủ yếu để xuất khẩu. Mùa tiêu thụ rải rác quanh năm, nhưng tập trung chủ yếu vào các tháng cuối năm.
Muốn nuôi ba ba thịt lớn nhanh, tỷ lệ sống cao, lãi nhiều, cần thực hiện tốt các biện pháp kỹ thuật sau:

a) Trước khi thả giống cần chuẩn bị ao bể nuôi đảm bảo chất nước và chất đáy sạch.

b) Cần thả giống sớm để tranh thủ nuôi được hết các tháng có nhiệt độ sinh trưởng thích hợp nhất. Các tỉnh phía Bắc thả từ tháng 3, tháng 4, các tỉnh phía Nam thả từ tháng 1, tháng 2 nuôi đến cuối năm thu hoạch.

c) Cỡ giống thả từ 100-200g/con. Trong một ao thả cùng cỡ chọn ba ba giống khoẻ mạnh, không mang mầm bệnh. Người mua ba ba để nuôi nên tìm hiểu kỹ, mua từ các cơ sở dịch vụ giống đáng tin cậy.

d) Mật độ nuôi từ 1-5 con/m2, tối đa 1kg/m2. Điều kiện thay nước chủ động, khả năng cấp thức ăn thoã mãn, nuôi mật độ cao; Điều kiện khó thay nước, khả năng đầu từ về giống có hạn, không có điều kiện cho ăn hàng ngày.... nuôi mật độ thưa.

e) Cho ăn, quản lý chăm sóc và phòng bệnh tốt, sau 8-10 tháng nuôi, ba ba thịt có thể đạt quy cỡ 0,6-1,2kg/con, tỷ lệ sống 90-100%. Nhiều cơ sở nuôi ở phía Nam nuôi lớn nhanh hơn ở phía Bắc, mức tăng trọng trung bình mỗi con có thể đạt 100g /tháng. Ở các tỉnh phía Bắc, mức tăng trọng đàn (tổng trọng lượng ba ba thịt khi thu/tổng trọng lượng ba ba giống khi thả) sau một vụ nuôi người đạt thấp từ 2-3 lần, người đạt cao từ 4-5 lần.

THỨC ĂN NUÔI BA BA VÀ KỸ THUẬT CHO BA BA ĂN

1. Loại thức ăn: động vật là thức ăn chính của Ba ba.

Thức ăn nuôi Ba Ba có thể chia 3 loại chủ yếu:

Thức ăn động vật tươi sống.

Thức ăn động vật khô.

Thức ăn chế biến hoặc thức ăn công nghiệp.
Cho đến hiện nay, phần lớn các hộ nuôi Ba Ba đều sử dụng thức ăn động vật tươi sống là chính, một số nơi có điều kiện cho ăn thêm thức ăn khô, nói chung chưa có điều kiện sử dụng thức ăn công nghiệp.

2. Thức ăn tươi sống: Gồm động vật còn nguyên con, còn sống hoặc đã chết nhưng thịt còn tươi. Không dùng thịt động vật đã bị ươn ôi và thịt động vật đã ướp mặn không có khả năng rửa sạch mặn. Các động vật, thịt động vật sử dụng làm thức ăn cho Ba Ba gồm:

Cá tươi: các tỉnh phía Bắc thường sử dụng cá mè trắng, cá tép dầu, cá mương, cá lành canh nước ngọt và các loài cá biển vụn. Các tỉnh phía Nam và vùng hồ chứa nước sử dụng nhiều cá Sơn, cá Linh, cá Chốt chuột, cá biển vụn...

Động vật nhuyễn thể: gồm các động vật nhuyễn thể nước ngọt (ốc vặn, ốc sên, ốc đồng, ốc nhồi, trai, hến) và các động vật nhuyễn thể như don, dắt...

Động vật giáp xác: chủ yếu là các loại tôm, cua rẻ tiền, cả ở nước ngọt và nước mặn.

Côn trùng: chủ yếu là trùn quế, giun đất, nhộng tằm. Trùn quế có thể nuôi số lượng nhiều để chủ động, giun đất có thể nuôi để cho ăn, có thể bắt giun tự nhiên.

Động vật khác: thường là tận dụng thịt của các động vật rẻ tiền không thuộc diện dùng làm thực phẩm cho người, và thịt phế liệu của các xí nghiệp chế biến thực phẩm như cá, tôm, mực, gia súc, gia cầm...

3. Thức ăn khô : Một số nơi có điều kiện có thể sử dụng cá khô nhạt, tôm khô nhạt... loại rẻ tiền để cho ăn kèm thức ăn tươi hàng ngày hoặc dự trữ cho ăn khi thiếu thức ăn tươi.

4. Thức ăn công nghiệp: Nước ta chưa sản xuất thức ăn công nghiệp chuyên dùng cho Ba Ba. Trên thế giới, một số nước đã sử dụng khá phổ biến, hiệu quả kinh tế cao. Thành phần dinh dưỡng trong thức ăn rất toàn diện, đặc biệt hàm lượng đạm rất cao, thức ăn nuôi Ba Ba giống có hàm lượng đạm 50-55%, thức ăn nuôi Ba Ba thịt có hàm lượng đạm trên dưới 45%.

5. Cách cho ăn thức ăn tươi sống:

Cho ăn theo địa điểm qui định để Ba Ba quen ăn, dễ theo dõi thức ăn hàng ngày, dễ làm vệ sinh khu vực cho ăn.

Động vật cỡ nhỏ Ba Ba ăn vừa miệng, có thể nuốt được cả con thì cho ăn cả con, động vật cỡ lớn cần băm thái thành nhiều miếng cho Ba Ba ăn đều.

Các phần cứng Ba Ba không ăn được như đầu cá, vây cá, vỏ động vật nhuyễn thể, xương động vật ... nên sử dụng chăn nuôi động vật trên bờ, không bỏ xuống ao làm tăng khả năng ô nhiễm nước ao.

Rửa sạch thức ăn trước khi cho ăn.

Ba Ba mới nở ngày cho ăn 3-4 lần, Ba Ba giống 2-3 lần, Ba Ba thịt và Ba Ba bố mẹ 1-2 lần/ ngày, lượng cho ăn buổi tối nhiều hơn buổi sáng.

Lượng thức ăn cho ăn trong một ngày đêm: Ba Ba mới nở 15-16%, Ba Ba giống 10-12%, Ba Ba thịt và Ba Ba bố mẹ 3-6% so với trọng lượng Ba Ba nuôi trong ao.

Nên cho ăn nhiều loại thức ăn động vật để bổ sung dinh dưỡng cho nhau. Không nên chỉ cho ăn một thứ duy nhất vì chất dinh dưỡng sẽ không đầy đủ.

Ba Ba mới nở cho ăn bằng động vật phù du (thuỷ trần), giun nước (trùng chỉ), giun quế. Sau 5-7 ngày nuôi chuyển cho ăn cá, tôm là chính. Nên chọn loại cá nhiều nạc, luộc cá gỡ thịt cho ăn chín tốt hơn cho ăn sống.

Trong tất cả các giai đoạn ương nuôi, nếu có điều kiện cho Ba Ba ăn giun càng nhiều càng lớn nhanh và béo khoẻ.

Các ao rộng nuôi Ba Ba với mật độ thưa có thể kết hợp nuôi ốc, nuôi cá tép nhỏ trong ao cho Ba Ba tự bắt ăn dần, không nhất thiết phải cho Ba Ba ăn hàng ngày. Dùng phân chuồng, phân xanh, phân vô cơ để gây nuôi động thực vật làm thức ăn cho ốc, cho cá tép nhỏ, hoặc có thể dùng các loại cám cho cá tép nhỏ ăn trực tiếp. Với cách nuôi này, năng suất Ba Ba nuôi tuy không cao, nhưng Ba Ba lớn nhanh, ít bệnh tật, chi phí thức ăn cho nuôi Ba Ba thấp, hiệu quả kinh tế cao.

QUẢN LÝ AO NUÔI VÀ PHÒNG BỆNH CHO BA BA

1. Quản lý ao nuôi:

Công việc quản lý ao nuôi quyết định rất lớn đến kết quả nuôi, quản lý không tốt thường dẫn đến thiệt hại, có khi thiệt hại rất lớn.

Quản lý ao nuôi gồm những công việc hàng ngày, công việc đột xuất và công việc định kỳ. Tổng hợp kinh nghiệm các nơi, nên chú ý làm tốt những công việc chủ yếu sau:

a) Luôn kiểm tra phát hiện, đề phòng các khả năng mất mát ba ba như hở cống, nước tràn bờ, ba ba leo vượt tường, vượt rào, động vật có hại vào ao phá hoại, trộm cắp...

b) Cho ăn đều đặn, no đủ, thức ăn sạch, theo dõi điều chỉnh mức cho ăn hợp lý hàng ngày. Giữ sạch sẽ khu vực cho ăn, không để có rác bẩn, thức ăn thừa.

c) Không để nước ao và đáy ao bị thối bẩn. Nước ao bẩn cần thay. Đáy ao bẩn cần thay hoặc cần tát cạn rắt vôi khử trùng cải tạo đáy.

d) Khống chế độ sâu, màu nước và chất nước ao nuôi trong phạm vi thích hợp. Nên giữ nước sâu từ 1-1,5m, giữ màu nước xanh lá chuối non, độ trong từ 25-30cm, pH từ 7-8, oxy hoà tan từ 4mg/l trở lên. Ở mức độ các chỉ tiêu trên thực vật phù du quang hợp phát triển tốt, có tác dụng ức chế được sự phát triển của vi sinh vật hiếm khí và vi sinh vật gây bệnh ở đáy ao, làm tăng oxy trong nước vầ giảm sự phát sinh các khí chất độc.

e) Mùa hè nhiệt độ cao cần chống nóng cho ba ba, không để nhiệt độ nước ao, bể nuôi vượt quá 33oC. Các biện pháp thông thường: làm giàn che mát, thả rong, bèo trong ao, giữ nước sâu, thay nước mới...Mùa lạnh cần chống rét cho ba ba (các tỉnh phía Bắc), cố gắng giữ cho nhiệt độ nước ao nuôi luôn trên 15oC. Các biện pháp thông thường: giữ nước ao sâu trên 1,5m, đáy ao có lớp bùn pha cát dày 20-25cm cho ba ba rút nằm, mặt ao thả bèo kín hoặc che chắn đỡ bị gió lạnh làm ảnh hưởng tới sức khoẻ, nơi có nguồn nước nóng nên tận dụng đưa qua ao nuôi, nâng nhiệt độ nước ao nuôi lên 20-30oC.

f) Thực hiện tốt các biện pháp phòng bệnh cho ba ba.

2.Phòng bệnh cho ba ba:

Nuôi ba ba nếu để chết nhiều sẽ bị lỗ. Kinh nghiệm cho thấy phải làm công tác phòng bệnh là chính. Nhiều gia đình không hiểu biết hoặc coi nhẹ công việc phòng bệnh, đã bị thiệt hại khá lớn. Qua các gia đình nuôi kết quả liên tục nhiều năm đều tốt, một trong những yếu tố quyết định là thực hiện tốt việc phòng bệnh.

Ba ba là một động vật rất khoẻ, sống trong hồ tự nhiên rất ít khi bị bệnh. Ba ba nuôi ở các ao rộng, mật độ thưa cho ăn và chăm sóc quản lý tốt cũng rất ít khi bị bệnh. Ba ba nuôi trong các ao, bể nhỏ, mật độ nuôi dày, điều kiện thay nước kém, cho ăn và chăm sóc quản lý không cẩn thận rất hay sinh bệnh.

Cần thực hiện tốt những biện pháp phòng bệnh sau đây:

1. Cẩn thận khi chọn mua ba ba giống về nuôi, tránh mua phải loại ba ba đang có bệnh. Không để ba ba cắn nhau, cào móng vào lưng nhau, bài tiết nước tiểu lên nhau, đè lên nhau ngạt thở trong lúc bắt và vận chuyển từ nơi mua về nơi nuôi.

2. Ao nuôi cần tẩy dọn sạch sẽ trước khi thả ba ba. Ao, bể mới xây cần ngâm nước thau rửa nhiều lần cho sạch, thử độ pH còn 7-8 hoặc thả thử ba ba vào thấy an toàn mới chính thức thả toàn bộ. Ba ba đưa vào tới nhà nên tắm khử trùng trước khi thả. Dùng nước muối nồng độ 3-4% hoặc dung dịch xanh malachit 1-2ppm (1-2g/m3 nước) tắm 15-20 phút để khử kí sinh trùng và nấm kí sinh. Nếu thấy bị xây sát chảy máu da nên tắm thêm bằng thuốc kháng sinh để phòng bệnh nhiễm trùng gây lỡ loét. Thường dùng Chloramphenicol hoặc Furazolidon liều lượng 20-50ppm (20-50g/m3 nước) tắm trong chậu, bể con từ 30 phút đến 1-2 giờ tuỳ theo vết thương nặng nhẹ và quan sát sức chịu đựng của ba ba.

3. Chú ý thay nước, không để nước ao nuôi có màu đen, không có mùi tanh thối bẩn. Ao nuôi mật độ dày, mùa hè phải thay nước luôn, tốt nhất mỗi ngày thay 20% lượng nước trong ao, nên tháo hoặc hút lớp nước dưới đáy là chính vì lớp nước này bẩn hơn lớp nước trên mặt. Ao nuôi mật độ thưa, nước chứa đầy, màu nước luôn xanh lá chuối non nói chung không cần phải thay nước. Trường hợp nước ao bẩn nhưng khó bơm tát, khó có đủ nước thay thì nên định kỳ 20-30 ngày một lần khử trùng nước ao bằng rắc vôi bột với lượng 1,5-2kg vôi/100m3 nước chia làm 2-3 ngày, mỗi ngày rắc trên một phần ao.

4. Chú ý không để lớp bùn cát đáy ao bị bẩn, cuối mỗi vụ nuôi hoặc trước vụ nuôi cần xử lý lớp bùn cát bẩn ở đáy ao, khử trùng triệt để. Cách thường làm là tháo cạn nước, rắc vôi bột hoặc vôi sống lên mặt bùn với lượng 10-15 kg vôi trên 100m2 đáy ao, đảo đều và phơi nắng 1-2 tuần, sau đó cho nước sạch vào ao, kiểm tra chất nước trước khi thả ba ba. Trường hợp ao, bể nhỏ, khối lượng bùn cát ít, nên thay toàn bộ bùn cát mới.

5. Chủ động phòng bệnh nấm thuỷ mi bằng cách treo túi thuốc xanh malachit ở khu vực cho ba ba ăn, mỗi túi 5-10g, thuốc ngấm dần ra ao, khi hết thay túi khác. Cũng có thể rắc thuốc trực tiếp xuống ao với lượng 5-10g/100m3 nước, 15-30 ngày thực hiện một lần. Quan trọng nhất là thực hiện vào lúc giao thời giữa mùa đông và mùa xuân, giữa mùa thu và mùa đông, có nhiệt độ nước thấp 15-22oC kéo dài.

6. Khi thấy ba ba bị bệnh hoặc nghi bị bệnh cần bắt nhốt riêng theo dõi, chữa trị, đồng thời có biện pháp tăng cường xử lý vệ sinh môi trường ao để ngăn những con khoẻ không bị lây bệnh.

CÁCH CHỮA CÁC BỆNH THƯỜNG GẶP CHO BA BA

Ba ba nuôi có nhiều loại bệnh. Công tác nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm chữa bệnh cho ba ba ở nước ta triển khai còn ít.

Bước đầu chúng tôi xin giới thiệu những kết quả đã nghiên cứu và tổng kết được về cách chữa một số bệnh thường gặp và gây hại nhất đối với ba ba là bệnh nấm thuỷ mi, bệnh kí sinh đơn bào và bệnh viêm loét do nhiễm khuẩn.

1.Chữa bệnh nấm thủy mi và kí sinh đơn bào:

Bệnh nấm thuỷ mi: lúc đầu trên da, cổ, chân của ba ba xuất hiện những vùng trắng xám, trên đó có các sợi nấm mềm. Sau vài ngày sợi nấm phát triển thành búi trắng như bông, có thể nhìn thấy bằng mắt thường, để dưới nước nhìn rõ hơn ở trên cạn. Khi ba ba bị viêm loét, trên vết loét có thể do nấm kí sinh phát triển làm cho bệnh nặng thêm, dễ chết hơn. Khả năng lây lan của bệnh này rất nhanh.

Bệnh kí sinh đơn bào: do loại kí sinh trùng có dạng hình chuông hoặc hình phểu lật ngược kí sinh trên da, trên cổ và kẽ chân ba ba. Khi bệnh phát triển nhiều, mắt thường có thể nhìn thấy được như sợi bông, nhưng dễ nhầm với nấm thuỷ mi nếu không kiểm tra qua kính hiển vi. Ba ba con bị bệnh này nhiều hơn ba ba lớn.

Cách chữa chung cho 2 loại bệnh này là:

Bắt ba ba bệnh thả vào chậu, tắm bằng thuốc xanh malachit nồng độ 2-4ppm (2-4g/m3 nước) trong 1-2 giờ. Nếu cần chữa cho cả đàn ba ba trong ao thì rắc thuốc xanh malachit xuống ao với liều lượng 0,05 – 0,10ppm (0,05 – 0,10g/m3) mỗi tuần rắc 1 lần cho đến khi hết bệnh.

Nếu xử lý kịp thời, có thể chữa khỏi 100% số ba ba mắc bệnh.

2. Chữa bệnh viêm loét do nhiễm khuẩn:

Bệnh này có nơi còn gọi là bệnh nấm bã đậu. Ao nuôi bị bẩn thường sinh ra bệnh này. Nguyên nhân sâu xa là do ba ba cắn nhau hoặc bò leo, vận chuyển, đánh bắt bị xây sát da, sau đó vết thương bị cảm nhiễm bởi các vi khuẩn Aeromonas hydrophyla và Pseudomonas sp. gây viêm loét. Vết loét không có hình dạng và kích cỡ nhất định, thường thấy ở cổ đầu, lưng, bụng, chân của ba ba. Miệng vết loét bị xuất huyết. Các vết loét sâu bị đóng kén bên trong, khêu miệng vết loét bóp ra những cục trắng như bã đậu, cỡ nhỏ như hạt tấm, cỡ to có thể bằng hạt đậu, hạt ngô.

Ba ba bị bệnh này có màu da không bình thường, tựa khô da, mắt xuất huyết màu đỏ, móng chân hay bị cụt, hay nổi lên mặt ao hoặc bò lên bờ, phản ứng chậm chạp yếu ớt. Sau khi bị bệnh 1-2 tuần có thể chết. Ao bị bệnh nhẹ thỉnh thoảng thấy có 1-2 con bị chết, ao bị bệnh nặng có thể chết tới 30-40% số ba ba trong ao.

Bệnh này có thể chữa khỏi được 70-80% với những cách chữa như sau:

Tắm cho ba ba bệnh bằng các loại thuốc kháng sinh như Chloramphenicol, Tetracycline, Furazolidon với liều lượng 20-50ppm từ 6-12 giờ một ngày, tiến hành liên tục 3-5 ngày.

Dùng đầu kim, đầu panh cậy vẩy các vết loét, bóp sạch kén trắng ra, dùng bông cồn lau sạch miệng vết loét, sau đó rắc một trong các loại thuốc kháng sinh nêu trên vào lỗ thủng, rồi dùng thuốc mỡ kháng sinh bôi bên ngoài để giữ thuốc bột lại. Một số nơi còn chữa bằng thuốc chống lao Rifamicin có hiệu quả nhanh. Bôi thuốc xong để ba ba vào chỗ yên tĩnh , tách riêng từng con không cho cắn nhau , tốt nhất là để vào cát ẩm. Sau vài ngày khi thấy miệng vết thương đã khô và co lại thì có thể bắt ba ba thả trở lại ao nuôi.

Ngoài ra , khi thấy ba ba có nhiều vết sưng đỏ có thể tiêm thuốc kháng sinh Chloramphenicol với liều lượng 100 – 150 mg/kg hoặc tiêm Streptomycin với liều 50-100mg cho 01 kg ba ba . Cần tiêm liền 2-3 lần trong 01 tuần . Một số người đã chữa khỏi bệnh cho ba ba bằng cách này.
    Blogger Comment
    Facebook Comment