Phần cuối của bài giảng vừa rồi của tôi, ngược lại với thuyết sùng bái siêu nhiên của đạo Kitô, là một sự biện minh và luận chứng cho quan điểm tôn giáo tự nhiên, và cụ thể đó là quan điểm cho rằng một con người xác định và hạn chế chỉ tôn thờ một thiên nhiên xác định và có giới hạn mà thôi: những ngọn núi con sông, động vật và thực vật của đất nước mình. Tôi đã lấy sự thờ cúng động vật, với tư cách là một bộ phận nghịch thường nhất của sự sùng bái nói trên, để làm đề mục cho tiết này và tôi đã biện minh cho điều đó như sau: động vật là những sinh vật cần thiết đối với con người, con người không thể sống không thể sống mà không có chúng; sự tồn tại của con người tùy thuộc vào chúng mà con người đã vươn lên được đỉnh cao của nền văn hóa; thế nhưng con người chỉ thờ làm thần những gì mà sự tồn tại của nó tùy thuộc vào đấy, và do đấy, con người chỉ phát hiện ở động vật cái giá trị mà con người gắn cho mình và cho cuộc sống của mình.
Nhiều người đã tranh luận về việc con người có lấy động vật làm đối tượng của sự sùng bái hay không, ý nghĩa và cơ sở của điều đó ra sao. Về vấn đề đầu tiên, nói về ngay chính việc tôn thờ động vật, thì nó được người ta chú ý luận bàn khi nghiên cứu tôn giáo của người Ai Cập thời cổ, và người ta đã giải đáp nó bằng cả “có” và “không.” Nhưng nếu chúng ta cho rằng những gì mà những nhà du lịch mới gần đây nhất đã thuật lại cho chúng ta được biết với tư cách là một người từng được nhìn thấy tận mắt, thì ta sẽ thấy rằng rất có thể là ngay đến cả người Ai Cập cổ xưa, nếu như không có những sự kiêng cữ đặc biệt nào đó, cũng đã sùng bái hoặc ít ra có thể sùng bái động vật hết như là các dân tộc ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ đã sùng bái chúng cách đây không lâu và ngay cả đến bây giờ vẫn còn. Chẳng hạn như, theo lời kể của Mac-xi-út-xơ trong cuốn “ Tình trạng luật pháp của những cư dân đầu tiên của Brésih”, thì giống đà mã châu Phi được nhiều người dân Pérou tôn thờ như là những con vật linh thiêng, một số khác thì lại cầu khẩn cây bắp. Cũng vậy, con bò đực là đối tượng tôn sùng của người Hindon. “Hằng năm người ta bày tỏ niềm tôn kính đối với con bò đực như thể đối với một vị thần, người ta tô điểm cho nó bằng những chiếc dãi và hoa, người ta sụp lạy trước nó. Ở nhiều làng người ta nuôi giữ con bò đực như là một thần tượng sống, và nếu như con vật chết đi thì người ta đem chôn cất nó với những nghi lễ rất long trọng.” Cũng hệt như vậy, “tất cả mọi loại rắn đều là linh thiêng đối với người Hindu. Có những người chuyên thờ các tượng thần, họ là những kẻ nô lệ mù quáng đối với các định kiến của mình đến mức mà họ coi việc bị rắn cắn là một niềm hạnh phúc ; may mắn. Họ cho rằng lúc đó là có sự tiền định đối với họ và sau đấy thì họ chỉ còn nghĩ đến việc làm sao có thể chấm hết cuộc đời mình một cách vui sướng hơn, vì họ tin rằng ở cái thế giới bên kia họ sẽ giữ được một vị trí rất quan trọng nào đó trong cung đình của vị thần rắn” ( Bách khoa toàn thư của Éc-sơ và Gru-béc, đề mục “Nước Ấn Độ cổ”). Những tín đồ Phật giáo mộ đạo và ngay cả những người các môn phái I-ai-na hay Djaina – một giáo phái ở Ấn Độ gần với Phật giáo – cũng đều coi mỗi một sự giết hại ngay đến một côn trùng nhỏ bé nhất cũng là một tội sát sinh có ý nghĩa ngang bằng như một vụ giết người vậy” ( Bô-len, “Nước Ấn Độ cổ” tập 1). Giáo phái Djaina cho xây lên “những nhà thương thật sự cho loài vật, cho cả giống loài hạ đẳng và bị xem rẻ nhất, và họ trả tiền cho những những người nghèo khó để những người này lập ra những chiếc quán trọ tại những nơi dành cho loài côn trùng sâu bọ, và để cho chúng cắn, đốt vào người họ. Những người thường xuyên mang một mảnh vải bịt kín mồm để khỏi nuốt vào mồm những con vật nhỏ bay trong không trung và như vậy tránh được giết hại chúng. Một số người đã sử dụng một miếng bọt biển nhẹ để đặt vào nơi mà họ muốn để khỏi đè chết những con vật nhỏ bé nhất. Hoặc họ mang theo người một chiếc bị nhỏ đựng bột hay đường hay một chiếc bình đựng mật để cùng san sẻ ăn với kiến hay với những loài vật khác” (Bách khoa toàn thư, Éc-sơ và Gru-béc). “Những người dân ở Tây Tạng kiêng nể những con rệp, con chấy và con bọ chét không kém những loài vật được thuần dưỡng và có ích. Ở Ava[1], người ta đối xử với gia súc như là đối với con cái của chính mình. Một người đàn bà có một con vẹt bị chết đã kêu khóc: “Ôi con trai tôi đã chết rồi, con trai tôi đã chết rồi.” (Mây-nét-sơ “Lịch sử đai cương có phê phán về các tôn giáo”). Một điều đáng lạ là, theo nhận xét của nhà bác học này, đa số các loại động vật mà ở Ai Cập và phương Đông nói chung được người ta tôn thờ như những vị thần, thì cho đến nay vẫn được những người dân xứ này theo đạp Kitô và đạo Hồi thừa nhận là những vật bất khả xâm phạm. Những giáo phái Kitô giáo ở Ai Cập chẳng hạn đã xây nên những bệnh viện cho mèo và đã ban hành những lệnh có tính chất những bản di chúc để cho các chim diều hâu và các loại chim khác được nuôi ăn trong những thời gian nhất định. Theo lời của V.Mar-sơ-đen trong cuốn sách của ông nhan đề “Địa chí về đảo Sumatra”, những cư dân mạng của đảo Sumatra đã tôn thờ giống cá sấu alligator và loài hổ thay vì phải giết hại chúng thì ngược lại họ lại để cho chúng giết hại mình. Họ không dám gọi những con hổ bằng tên thường vẫn được dùng để gọi chúng. Khi một người Âu bảo những người kém mê tín hơn trong bọn họ đặt bẫy thì đêm đến họ đi lại chỗ đó và tiến hành một số nghi lễ để cho con vật, nếu có bị mắc bẫy hay đánh hơi thấy mồi, thì hãy tin rằng bẫy không phải do họ đặt và họ không hề đồng tình với việc làm đó.”
Sau khi đã xác nhận qua một số thí dụ về sự kiện thần thánh hóa và tôn thờ loài vật, tôi xin chuyển sang nói về nguyên nhân và ý nghĩa của những hiện tượng đó. Loài vật là những sinh vật cần thiết đối với con người. Không có chúng thì nó không thể tồn tại được, chứ chưa nói là tồn tại với tư cách là con người. Sự cần thiết chính là cái điều mà tôi bị phụ thuộc vào đó; vì vậy nên, chừng nào mà thiên nhiên nói chung, với tư cách là nguyên lí cơ bản của của sự tồn tại của con người, được biến thành đối tượng của sự sùng bái tôn giáo, thì chừng đó sự sùng bái giới động vật cũng có thể và phải là đối tượng của sự sùng bái tôn giáo. Bởi vậy nên tôi chủ yếu nghiên cứu sự sùng bái động vật có liên quan với các thời kì trong đó nó đã có được sự biện minh về mặt lịch sử của nó, liên quan với thời kì của nền văn minh đang được khởi đầu lúc mà động vật đã có được một tầm quan trọng hết sức lớn lao đối với con người. Nhưng há động vật lại có một tầm quan trọng nhỏ bé đối với ngay cả chúng ta giờ đây, những kẻ đang chế giễu sự sùng bái động vật? Người thợ săn có thể làm được gì được nếu không có chó, người chăn súc vật nếu không có chó béc-giê, người nông dân nếu không có bò đực? Phân chuồng chẳng phải là linh hồn của nền kinh tế, và do đó, ngay đối với chúng ta, cũng như đối với các dân tộc cổ xưa, con bò đực chẳng phải là nguyên lí tối cao, là vị thần của nghề nông hay sao? Vậy cớ sao chúng ta lại chế giễu những dân tộc cổ xưa nếu như họ sùng bái với một thái độ tôn giáo những gì mà đối với chúng ta, những con người có quan điểm duy lý, vẫn cứ còn có một giá trị hết sức to lớn? Ngay trong nhiều trường hợp chúng ta chẳng đem đặt loài vật cao hơn con người đấy sao? Ngay trong nhiều nhà nước Đức theo đạo Kitô con ngựa chiến còn có giá trị to lớn hơn người cỡi ngựa, và đối với người nông dân, con bò đực còn có giá trị to lớn hơn người công nhân nông nghiệp đấy hay sao? Và với tư cách là một thí dụ lịch sử tôi xin dẫn ra ở tiết này một đoạn trích trong “Zend Avesta”[2]. Ở dạng của nó hiện nay “Zend Avesta” cố nhiên chỉ là một cuốn sách tôn giáo của người Ba Tư thời cổ, được biên soạn lại về sau này và có sự bóp méo xuyên tạc ít nhiều. Chẳng hạn như ở đây ta thấy được ghi lại phần mang tên là “Ven-ai-đát” (sự thật thì đây cũng chỉ là qua bản dịch cũ, không lấy gì làm đáng tin lắm, của Klây-kéc): “Thế giới tồn tại được là nhờ sự thông minh của con chó. Nếu như con chó không canh giữ các con đường, thì bọn cướp và các bầy chó sói đã phá phách sạch mọi tài sản.” Chính bởi lẽ nó có vai trò quan trọng như vậy, nhưng, lẽ cố nhiên, cũng còn nhờ cả những định kiến tôn giáo nữa, nên trong các điều tôn pháp được ghi lại bởi chính bộ sách “Zend Avesta” nói trên, con chó, với tư cách là kẻ bảo vệ và canh giữ cho con người khỏi loài thú dữ, “không những được sánh ngang bằng với người, mà còn xem trọng hơn trong việc thỏa mãn những nhu cầu cho nó.” Chẳng hạn như khi ta đọc được như sau “Kẻ nào nhìn thấy một con chó đói nào đó thì bắt buộc phải nuôi nó bằng những món ăn ngon nhất.” “Nếu như một con chó cái và bầy con của nó bị lạc lối thì người đứng đầu địa phương nơi có con chó đến buộc phải giữ nó lại và cho ăn tử tế; nếu như y không làm như vậy thì sẽ bị trừng phạt bằng cách đem chặt hết chân tay.” Bởi vậy, con người còn kém giá trị so với con chó; trong tôn giáo của người Ai Cập chúng ta ta còn được thấy những quy định còn tệ hơn thế nữa, đem đặt con người thấp hơn loài vật. Diodore có ghi lại như sau: “Kẻ nào giết chết một trong các động vật đó (và cụ thể là các con vật thiêng), kẻ đó sẽ tội chết. Nếu như đấy là một con mèo hay một con hạc[3] thì vô luận thế nào cũng phải chết, cho dù vô tình hay hữu ý giết chết con vật, đám đông sẽ chạy lại và xử tội kẻ phạm lỗi một cách tàn nhẫn nhất.”
Thế nhưng dường như ngay những thí dụ mà tôi đã dẫn ra có vẻ như lại chống lại việc giải thích sự sùng bái loài vật là do tại tính chất cần thiết không thể thay thế được của chúng. Những con hổ, con rắn, con bọ chấy, con bọ chét là những con vật hết sức cần thiết cho con người hay sao? Chả là vì chỉ những con vật nào có ích lợi mới là những con vật cần thiết. Trong tác phẩm của ông ta mà ta đã có nêu lên, Mây-nét-sơ nói: “Nếu như nói chung người ta vẫn tôn thờ các động vật có ích nhiều hơn là các loài động vật có hại thì vẫn không thể nào từ đó kết luận tính chất có ích của động vật là nguyên nhân của việc sùng bái chúng một cách hợp lý, có thể chấp nhận được. Những loài vật có ích được tôn kính không phải tương ứng với tính chất có ích của chúng và các loài động vật có hại được tôn kính cũng không phải tương ứng với tính chất độc hại của chúng. Cũng như có nhiều tình huống là tốt lành đối với con vật này ở nơi này, nhưng ở một nơi khác thì thì lại là tốt lành đối với một con vật khác; tình huống đó vẫn còn chưa được hiểu biết rõ và còn chưa được nghiên cứu đến; thì cũng vậy, còn nhiều hiện tượng sùng bái động vật đến nay chưa được giải thích được và có nhiều mâu thuẫn, trái ngược với nhau. Chẳng hạn như người da đen ở Sénégal và Gambie thì thờ kiêng cữ các con hổ trong khi đó thì tại vương quốc An-tê và những vương quốc lân cận người ta thưởng cho những ai giết được hổ.” Quả vậy, trong lĩnh vực của tôn giáo chúng ta rơi trước hết vào một tình trạng hỗn loạn của những mâu thuẫn, những điều trái ngược hết sức lớn lao và rối rắm. Tuy nhiên, mặc dầu có các điều đó đi nữa, khi đi vào quan sát sâu hơn, ta có thể quy mọi mâu thuẫn đó vào các lý do là do từ sợ hãi và yêu thương; thế nhưng những lý do này, tùy theo sự khác nhau của con người, được hướng vào các đối tượng và rốt rút cục cũng được quy lại thành ý thức về sự lệ thuộc mà thôi. Nếu như ngay cả một con vật nào đó không mang lại điều ích lợi hay độc hại thực tế, đã được chứng minh về mặt lịch sử tự nhiên đi nữa, thì con người, trong sự tưởng tượng có tính chất tôn giáo của mình vẫn đem gắn với nó những hành vi mê tính, thường về một lý do ngẫu nhiên mà chúng ta chưa biết được. Có hiệu lực chữa bệnh thần diệu nào mà người ta không gán cho những viên đá quý: Từ cơ sở nào vậy? Do sự mê tín. Như vậy, những lý do bên trong của việc sùng bái đều giống nhau, sự biểu hiện của chúng chỉ khác nhau ở chỗ việc thờ cúng một số động vật này thì được dựa trên cơ sở của một lợi ích hay một sự độc hại tưởng tượng, chỉ có ở trong lĩnh vực của niềm tin hay sự mê tín, trong khi đó thì sự sùng bái một số vật khác được dựa trên cơ sở của tính chất kiến hiệu hay tính chất hữu ích thực, tính chất nguy hại thực. Nói một cách khác, sự may mắn hay sự bất hạnh, hạnh phúc hay đau khổ, bệnh tật hay lành mạnh, sự sống hay sự chết thực ra có tùy thuộc, thật sự vào một số đối tượng này của sự sùng bái tôn giáo, nhưng chỉ tùy thuộc vào một số đối tượng khác trong trí tưởng tượng, trong niềm tin, trong quan niệm mà thôi.
Ngoài ra, tôi muốn lưu ý một điều, nhân các việc các đặc tính khác nhau và tính khác nhau và tính chất nhiều loại nhiều vẻ của các đối tượng tôn giáo có vẻ như mâu thuẫn với lối giải thích bên trên của tôi về sự xuất hiện của tôn giáo, rằng tôi tuyệt nhiên không hề đem quy tôn giáo, cũng như một sự vật nào đó nói chung, vào một cái gì đấy có tính chất phiến diện, trừu tượng. Khi tôi suy nghĩ về một sự vật nào đó, bao giờ tôi cũng có nó ở trước mắt mình trong tính chất toàn vẹn, tổng thể của nó. Cái ý thức về sự lệ thuộc của tôi không phải là một ý thức có tính chất thần học, theo kiểu của Sohleiermacher, mù mờ, thiếu xác định và trừu tượng. Cái ý thức về sự lệ thuộc của tôi chỉ có mắt, có tai, có tay và chân; cái ý thức về sự lệ thuộc của tôi chỉ là con người tự cảm thấy mình bị lệ thuộc, nhìn thấy mình bị lệ thuộc, nói tóm lại, ý thức được một cách toàn diện và trên mọi phương diện về sự lệ thuộc của mình. Cái mà con người bị lệ thuộc vào đó, mà nó cảm thấy mình bị lệ thuộc vào đó, mà nó biết rằng rằng sự lệ thuộc của mình là do đó, cái đó là thiên nhiên, là đối tượng của tình cảm, ý thức. Bởi vậy cho nên là điều hoàn toàn bình thường nếu như mợi ấn tượng mà thiên nhiên đã gây nên trên con đường nhờ có các cảm giác, cho dù có chỉ là những ấn tượng của đặc tính tư chất[4], đều có thể trở thành những lý do cho sự sùng bái tôn giáo, và thật ra đã trở thành như thế; cũng là điều hoàn toàn bình thường khi ngay cả những đối tượng chỉ động chạm đến những cảm giác lý luận và không có quan hệ thực tiễn trực tiếp với con người, trong đó được bao gồm những lý do đích thực của sự sợ hãi và tình yêu thương, cũng đều trở thành đối tượng của tôn giáo. Ngay cả trong trường hợp một thực thể nào đó của thiên nhiên được biến thành đối tượng của sự sùng bái tôn giáo để rồi sẽ trở thành vô hạn – nếu như nó là đáng sợ và độc hại, hay để nhận lấy sự cảm tạ và điều tốt lành mà nó mang lại – nếu như nó là thiện lành và có ích ; ngay cả trong trường hợp đó đi nữa nó vẫn cứ có những mặt khác cũng đồng thời nằm đúng vào trong tầm nhìn và ý thức của con người và do đó cũng trở thành những yếu tố của tôn giáo. Nếu như người theo đạo thần lửa (parse hay parsi) tôn thờ con chó vì đức tính cảnh giác và sự trung thành của nó, có thể nói vì ý nghĩa chính trị và tinh thần của nó và sự cần thiết của nó đối với con người, thì quả con chó là là đối tượng của của sự đánh giá và đối tượng của sự chiêm quan (contemplation) không phải in astracto (một cách trừu tượng) mà thôi, với tư cách một kẻ bảo vệ, canh giữ, mà còn với mọi khía cạnh khác, mọi phẩm chất thiên nhiên khác nữa của nó, trong toàn bộ, trong tổng thể của nó, và vì vậy, đương nhiên là những phẩm chất này đều là những sức mạnh dự phần vào việc tạo nên đối tượng tôn giáo. Nên chi trong “Zend Avesta” còn thấy được nêu lên một cách rõ ràng, cụ thể những phẩm chất khác của con chó, chứ không phải chỉ sự hữu ích và tính cảnh giác của nó.Chẳng hạn như ta đọc được ở trong đó như sau: “Con chó có tám đức tính kỳ lạ: nó giống tựa như người thầy tế, người chiến sĩ, người nông phu – nguồn gốc của sự giàu có, giống con chim, kẻ cướp, con thú dữ, một người đàn bà độc ác, một gã thanh niên. Như người thầy tế, nó là cái sẽ tìm thấy được… như thầy tế, nó đi đến mọi kẻ đang kiếm nó…; con chó ngủ nhiều như chàng thanh niên và “như chàng thanh niên, nó hăng hái trong hành động”, v.v. Cũng như hoa sen (Nymphaea Lotus), vốn là đối tượng tôn thờ chủ yếu ở người Ai Cập và người Ấn Độ xưa và cho đến bây giờ vẫn còn được tôn thờ ở gần như toàn bộ phương Đông, không chỉ là một loại cây có ích – rễ của nó ăn được và đặc biệt vào các thời kì trước đây rễ của nó vốn là thức ăn chủ yếu của người Ai Cập”, mà còn là một trong số những hoa mọc dưới nước đẹp nhất. Và nếu như ở một dân tộc khôn ngoan và thực tế, có khả năng văn hóa, cơ sở của sự sùng bái tôn giáo chỉ là những đặc tính duy lý của đối tượng mà thôi, những đặc tính có tầm quan trọng đối với sự tồn tại và trình độ hiểu biết của con người, thì ở một dân tộc có một tính cách mâu thuẫn, chỉ những đặc tính phi lý, không quan hệ gì đến sự tồn tại và đời sống văn hóa của con người, và cả những đặc tính kỳ quái nữa, mới có thể trở thành đối tượng của sự sùng bái tôn giáo. Người ta còn có thể sùng bái cả những vật và sinh vật, mà ta không thể nào dẫn ra một cơ sở nào khác cho sự tôn thờ đó ngoài sự giao cảm hay một đặc tính tư chất. Nếu như tôn giáo không phải gì khác hơn là tâm lý học và nhân loại học, thì lẽ cố nhiên đặc tính tư chất (khí chất) hay quan hệ đồng cảm đóng một vai trò lớn ở trong đó. Mọi hiện tượng kỳ lạ và đập vào mắt trong bản thể của thiên nhiên, tất cả những gì làm cho con người phải chú mục đến hay sửng sốt ngạc nhiên, tất cả những gì làm cho con người kinh ngạc và làm cho thính giác của nó bị quyến rũ, say mê, tất cả những gì làm cho trí tưởng tượng của nó bùng cháy lên, kích thích sự ngạc nhiên của nó, tất cả những gì tác động đến trạng thái tâm hồn của nó một cách đặc biệt, khác thường và, một cách không thể cắt nghĩa được, tất cả những cái đó đều đóng một vai trò nhất định trong sự xuất hiện của tôn giáo và đều có thể cung cấp một cơ sở mà ngay cả chính một đối tượng cho sự sùng bái tôn giáo. Trong những bức thư của ông, Sénefque viết: “Chúng ta chiêm ngưỡng với một sự tôn kính mến thương nguồn (có nghĩa nguồn) của những con sông lớn. Chúng ta lập đền thờ con suối bất thần thoát vọt ra rất mạnh nơi ẩn kính. Chúng ta tôn thờ những nguồn nước nóng và một số hồ đối với chúng ta có tính chất linh thiêng, bởi vì chúng có một màu sẫm tối và sâu thăm thẳm.” Trong bản luận án thứ tám của ông Mác-xim Tiếc-xki có nói: “Người ta tôn thờ các con sông hoặc vì tính chất có ích của chúng, như con sông Nil đối với người Ai Cập, hoặc vì vẻ đẹp của chúng, chẳng hạn như con sông Péncé[5] đối với người Thessaliens, hoặc vì vẻ vĩ đại của chúng như con sông Istre[6] đối với người Scythes[7]”, hoặc vì những nguyên nhân thúc đẩy khác. Clao-béc-gơ, nhà triết học người Đức ở thế kỷ XVII nhưng viết bằng chữ La-tinh, người học trò đầy tài năng của Descartes, đã nói: “Đứa trẻ lấy làm say mê, ham thích hơn cả những vật sáng và lóng lánh. Đấy là lí do tại sao các dân tộc dã man lại dễ bị lôi cuốn bởi sự tôn thờ mặt trời và các thiên thể và sự tôn thờ mặt trời và các thiên thể và những sự tôn thờ tượng thần khác tương tự.”
Nhưng mặc dầu tất cả các ấn tượng, xúc cảm và trạng thái tâm hồn nói đó, có nghĩa những yếu tố của tôn giáo như ánh sáng phản chiếu lên các viên đá – là vì người ta thờ cả những viên đá - vẻ dễ sợ của ban đêm, vẻ tối tăm và sự im lặng của một khu rừng, chiều sâu và sự mênh mông bao la của biển cả, vẻ độc đáo và kì quái như đập vào mắt, hoặc vẻ dễ thương và hình dáng dễ sợ của các con vật – mặc dầu khi ta giải thích và nhận thức tôn giáo tất cả những yếu tố trên đều là những đại lượng cần được tính toán và cân nhắc đến, thế nhưng ở đây con người chưa đứng ở trên mảnh đất của lịch sử, nó còn sống trong trạng thái ấu thơ, cũng như một con người riêng rẽ chưa phải là một nhân vật lịch sử (mặc dầu về sau đấy nó sẽ trở thành như thế), khi mà không cần phân tích, không cần phê phán nó để cho các ấn tượng và xúc cảm ngự trị, khống chế mình; nó đã lấy ra các vị thần của mình chính chỉ từ các ấn tượng và xúc cảm đó mà thôi. Những vị thần như thế chỉ là những ngôi sao băng, những khí tượng của tôn giáo. Chỉ khi nào con người bắt đầu hướng đến các đặc tính nào đó của các sự vật, những đặc tính thường xuyên, và một cách lâu dài nhắc cho con người nhớ đến sự lệ thuộc của mình vào thiên nhiên, chúng không ngừng và một cách cảm tính cụ thể khiến cho con người cảm thấy rằng nếu không có thiên nhiên thì nó không thể làm gì cả, và không là gì cả, khi mà nó biến những đặc tính trên thành những đối tượng của sự tôn thờ của mình, thì chỉ khi đó nó mới vươn lên đến một tôn giáo thật sự, thường xuyên, có tính chất lịch sử với một sự thờ cúng được hình thành. Chẳng hạn như mặt trời chỉ là đối tượng của một sự thờ cúng thật sự ở một nơi nào mà nó được tôn thờ không phải vì sự tỏa sáng rực rỡ của nó, không phải chỉ độc vì cái bản chất vốn có của nó làm lóa mắt ta; mà là ở nơi nào đó nó được tôn thờ với tư cách là nguyên lý tối cao của nông ngiệp, với tư cách là thước đo thời gian, với tư cách là nguyên nhân của trật tự trong thiên nhiên và trong xã hội, với tư cách là cơ sở hiển nhiên, không thể chối cãi của đời sống con người, nói tóm lại ở nơi nào mà nó được tôn thờ về sự cần thiết của nó, vì sự thiện lành mà nó mang lại. Chỉ nơi nào mà yếu tố lịch sử-văn hóa trong sự vật được hiện lên trong phạm vi để ý đến của con người thì ở nơi đó tôn giáo, hay một trong các ngành của nó, mới tạo thành yêu tố, đối tượng lịch sử đặc sắc mà nghiên cứu lịch sử và tôn giáo cần quan tâm đến. Điều vừa nói cũng có liên quan đến sự sùng bái loài vật. Mặc dầu trong tôn giáo sự sùng bái bao trùm cả loài vật mà không nhất thiết phải đứng trên quan điểm lịch sử và văn hóa, tuy thế sự sùng bái các động vật có tính chất lịch sử, văn hóa vẫn cứ là mặt đặc sắc, hợp lý trong đó mà ta cần phải nêu lên; lý do tại sao người ta tôn thờ cả những loài vật khác, tại sao nói chung người ta cũng tôn thờ cả những sự vật và những và những đặc tính không hề quy định và không làm cơ sở cho sự tồn tại của con người và cho những nét đặc điểm của con người (như ta đã nêu lên bên trên), cái lý do đó cũng không nằm ngoài giới hạn của sự sùng bái các vật thể đáng được tôn sùng vì lý do của tính nhân đạo. Những sự vật trong thiên nhiên cần thiết hơn cả, quan trọng hơn cả, có ảnh hưởng nhiều hơn cả, gợi nên ở con người nhiều hơn cả cái ý thức về sự lệ thuộc của nó vào chúng, những sự vật đó cũng có mọi đặc tính tác động một cách mạnh mẽ nhất đến thị giác và trạng thái tâm hồn và gây được sự kinh ngạc, sụ bái phục và mọi xúc cảm cùng tâm trạng khác nữa tương tự như thế. Cho nên trong cuốn “Các hiện tượng của Aratus[8], ta thấy tác giả đã nói cùng Zenus, với Thượng đế, với nguyên nhân của mọi hiện tượng trên thiên giới, rằng: “ Chúng con xin chào người, xin chào Người, vì cha, Người là sự mầu nhiệm vĩ đại (có nghĩa một đấng vĩ đại gây nên sự kinh ngạc và bái phục). Người là niềm an ủi của con người.” Như vậy chúng ta có được trong cùng một sự vật cả hai nét đặc điểm mà mà ta vừa mới nêu bên trên, được kết hợp lại. Nhưng đối tượng của tôn giáo, đối tượng của sự sùng bái không phải là thauma, sự mầu nhiệm, kỳ diệu, mà là oneiar, niềm an ủi, sự bảo vệ che chở; có nghĩa đấy không phải là một đấng với tư cách của nó là đối tượng của sự ngạc nhiên, mà là một đấng tạo thành đối tượng của sự sợ hãi và hy vọng; nó là đối tượng của sự sùng bái không phải vì những đặc tính của nó đã gây nên sự ngạc nhiên và sửng sốt kinh ngạc, mà là vì những đặc tính làm cơ sở và bảo vệ sự tồn tại của con người và kích thích cái ý thức về sự lệ thuộc.
Cũng chính điều đó có thể áp dụng đối với sự sùng bái loài vật; có biết bao nhiêu vị “thần-động vật” tồn tại được là nhờ có thauma, nhờ có tò mò ngạc nhiên không chút phê phán, nhờ vào một sự ngạc nhiên vô nghĩa, nhờ vào sự tùy tiện không có lấy một giới hạn nào cả của các định kiến tôn giáo. Bởi vậy cho nên chúng ta không nên ngạc nhiên và lấy làm hổ thẹn rằng con người đã tôn sùng loài vật, là vì con người yêu quý và tôn sùng trong chúng cũng chỉ bản thân mình mà thôi; nó tôn thờ loài vật – ít ra cũng là ở nơi nào mà sự tôn sùng các loài vật là một hiện tượng lịch sử văn hóa – cũng chỉ do sự phục vụ của loài vật cho loài người mà thôi, và cũng có ý nghĩa, cho chính bản thân nó, không phải vì loài vật, mà vì những động cơ thúc đẩy có tính chất con người.
Chúng ta có được một thí dụ dẫn chứng cho việc con người, trong khi tôn sùng loài vật, chính đã tôn sùng bản thân mình, qua việc con người ngày nay vẫn cứ còn xem trong loài vật. Người đi săn chỉ quý trọng những con vật có ích cho việc săn bắn của mình, người nông dân quý trọng những con vật cần cho công việc canh tác, có nghĩa người đi săn đánh giá cao qua con vật quá trình săn bắt đang tạo nên bản chất riêng của anh ta; người nông dân quý trọng qua con vật chỉ nền kinh tế, vốn là linh hồn của chính mình và vị thần thực tế đó của anh ta. Bởi vậy cho nên ngay cả trong sự sùng bái động vật chúng ta cũng có được một bằng chứng và một thí dụ xác nhận cho cái ý kiến cho rằng trong tôn giáo con người cũng chỉ khách thể hóa cái bản chất riêng của chính mình mà thôi. Con người rất đỗi khác nhau, những nhu cầu của họ rất đỗi khác nhau, quan điểm cơ bản của họ nói lên bản tính cơ bản của họ rất đỗi khác nhau, thì cũng vậy, những con vật mà họ chủ yếu tôn thờ cũng rất đỗi khác nhau – hay ít ra ở các dân tộc đã thuộc lịch sử văn hóa – thành thử ra qua các đặc tính của những con vật được dùng làm đối tượng của sự tôn thờ, người ta có thể đánh giá được về ngay chính phẩm chất của những con người tôn thờ chúng. Chẳng hạn theo lời nhận xét của Rô-đơ trong tác phẩm của ông mang tựa đề “Chuyện cổ tích[9] về thần thánh và toàn bộ hệ thống tôn giáo của người Bactriens[10], người phương Nam và người Parses hay của dân tộc nlois tiếng Zend[11], thì con chó “đối với người Parses, là dân tộc ban đầu chỉ sống bằng nghề chăn nuôi, được xem như là chỗ dựa hết sức quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại cái thế giới thú dữ của thần Ariman[12], có nghĩa chống lại loài sói và những loài vật ăn thịt khác; vì thế cho nên người ta đã trừng phạt bằng tội chết những ai giết một con chó đang còn có ích hay một con chó cái đang có chữa. Người Ai Cập trong khi canh tác đất đai không không phải lo sợ về chó sói hay về các giống thú dữ khác. Những giống chuột làm hại họ là những công cụ của thần Typhon[13], bởi vậy nên đối với họ con mèo đóng một vai trò mà dân tộc Zend vẫn gán cho con chó.” Nhưng không phải chỉ thực tiễn văn hóa của một dân tộc mà cả nội dung lý luận của nó, quan điểm tinh thần của nó nói chung cũng điều khách thể hóa đối với chúng ta sự thờ cúng động vật, khách thể hóa sự sùng bái tự nhiên nói chung; là vì, ở đâu mà con người loài vật và cây cỏ thì ở nơi đó nó không còn là con người giống như chúng ta nữa, ở nơi đó nó đã tự đồng nhất hóa mình với loài động vật và thực vật, ở nơi đó đối với nó chúng là những sinh vật một phần là người, một phần là siêu nhân. Chẳng hạn như trong “Zend-Avesta” ta thấy con chó cũng phải tuân theo những luật pháp giống như con người. “Nếu như con chó cắn một gia súc hay một người, thì lần đầu tiên người ta xẻo tai phải của nó, lần thứ hai cắt tai trái, lần thứ ba chặt chân phải, lần thứ tư chặt chân trái, lần thứ năm chặt đuôi.” Nên chi, theo Diodore, người Troglodytes[14] gọi con bò đực và bò cái, con cừu đực và con cừu cái là bố và mẹ, bởi vì họ thường xuyên nhận lấy ở chúng thức ăn hằng ngày, chứ không phải do từ cha mẹ của họ cho. Nên chi, theo như Mây-nec-xơ cho ta được biết, người Indiens[15] ở Guatimala, cũng giống như người da đen ở Châu Phi, tin rằng đời sống của mỗi xon người gắn liền mật thiết với đời sống của một con vật nhất định và nếu như con vật anh em với nó bị giết chết thì cả con người kia cũng phải chết. Hay như lời Sakountala[16] nói với những bông hoa: “Ta cảm thấy yêu thương các cây đó như một người chị em.” Một giai thoại do V. Johnson thuật lại cho ta một thì dụ rất hay về sự phân biệt giữa một con người đứng trên quan điểm của sự sùng bái thiên nhiên theo kiểu phương Đông, với một con người có cùng quan điểm với chúng ta; câu chuyện như sau: Có một lần ông ta để ở bàn một hoa sen để nghiên cứu thì một người lạ từ Népal lại nhà ông, vừa nhìn thấy bông hoa ông ta sụp xuống lạy với một vẻ thành kính. Thực là cả một sự khác biệt biết bao nhiêu giữa một người sụp lạy một bông hoa với cả một thái độ thành kính, và một con người đang nhìn bông hoa chỉ trên quan điểm của một nhà thực vật học.
Nguồn: Ludwig Feuerbach. Những bài giảng về bản chất của tôn giáo. Chưa rõ tên người dịch. Phiên bản điện tử do Huỳnh Trân đánh máy và Nguyễn Hoàng An chỉnh sửa.
[1] Một thành phố của Miến Điện, xưa từng là kinh đô
[2] tên gọi một bộ sưu tập các bản văn cổ có tính chất tôn giáo của người Ba Tư xưa
[3] Ibis: đây là một giống chim hạc ở miền nhiệt đới. Người Ai Cập xưa thờ nó như thần vì giống hạc này hay bắt các rắn độc ở ven bờ sông Nil.
[4] Idiosynchrasic: phản ứng cơ thể tự nhiên có ở mỗi người; gần nghĩa với “khí chất” (tempérament)
[5] Tên gọi của con sông Salamvria, một con sông của miền Thessalie (một vùng của nước Hy Lạp)
[6] Tức sông Danube ngày nay
[7] Tên gọi những bộ tộc dã man xưa đa số sống bằng nghề du mục ở vùng Đông Bắc châu Âu và Tây Bắc châu Á.
[8] Nhà thơ và nhà thiên văn học của Hi Lạp thời cổ đại (thế kỉ III trước công nguyên, tác giả của bản trường ca nổi tiếng nhan đề “Các hiện tượng” (“Les Phenomènes”).
[9] Saga – loại truyện cổ tích của của các dân tộc Bắc Âu.
[10] Người xứ Bactriane, ở châu Á xưa, trên vùng đất của Turtcestan và Ba Tư sau này.
[11] Ngôn ngữ của người Ba Tư cổ.
[12] Vị thần ác trong thần thoại Ba Tư cổ đại.
[13] Ở Ai Cập thời cổ, đấy là vị thần ác, thần của bóng tối và sự nghèo nàn cằn cỗi.
[14] Tức “những kẻ sống trong hang động” tên mà người Hi Lạp thời xưa gọi những bộ tộc dã man sống trong hang đá.
[15] Khi Christophe Colomb tìm ra châu Mỹ, cứ tưởng đó là Ấn Độ mà ông ta đang đi phát kiến, nên ông đã gọi chung các thổ dân là Indiens. Nên cần phân biệt để khỏi nhầm Indiens chỉ người Ấn Độ.
[16] Người nữ anh hùng trong vở kịch cùng tên bằng chữ Sanskrit; tác giả là nhà thơ nổi tiếng Kalidasa của Ấn Độ.
LUDWIG FEUERBACH (1804-1872)
Blogger Comment
Facebook Comment